Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Dịch Giả/ Dẫn Nhập của Tác Giả

14 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7062)
Lời Dịch Giả/ Dẫn Nhập của Tác Giả

TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY

ĐỐI THỌAI GIỮA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO
Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

LỜI DỊCH GIẢ


Quyển sách này chúng tôi biên dịch theo cuốn “L’infini dans la paume de la main”, còn có tựa là “Le moine et l’Astro physician” của hai tác giả Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận.

Matthieu Ricard thì chúng ta đã biết qua quyển “Đạo sư và Triết gia” còn Trịnh Xuân Thuận là nhà vật lý thiên văn người Việt rất được ngưỡng mộ hiện nay trên thế giới. Giáo sư Thuận hiện là giáo sư diễn giảng ở Đại học Virginia Mỹ.

Quyển sách đề cập đến nhiều vấn đềPhật Giáo hằng quan tâm: sự hình thành của vũ trụ, hiện hữu hay không hiện hữu, nguồn gốc của Tâm, tánh không của các Pháp, tái sinhluân hồi v.v...

Quan điểm của Phật Giáo và Khoa học có nhiều điểm tương đồng và cũng rất nhiều điểm dị biệt. Muốn dung hợp những quan điểm có phần siêu hình của Phật Giáo với quan điểm thực nghiệm của Khoa học là một việc không dễ dàng gì. Do đó, cuốn sách khó đọc, khó hiểu, khó dịch cho sát nghĩa và như đã trình bày trong quyển “Đạo sư và Triết gia”, với vốn học Phật cũng như vốn ngoại ngữ còn rất hạn chế, chúng tôi đã gặp không ít khó khăn trong khi biên dịch. Chúng tôi đã tự động lược bỏ những chương, những đoạn mà chúng tôi thấy khó nắm bắt, cũng như không phù hợp với một cái nhìn chung về những vấn đề đã nêu.

Do đó, chắc chắn quyển sách sẽ có nhiều sai sót và lỗi phiên dịch, vì vậy một lần nữa kính nhờ các bậc tôn túc trong và ngoài Đạo vui lòng chỉ giáo và bổ chính.

 

Bác sĩ Hồ Hữu Hưng

Cẩn bút

 


 

Vũ Trụ Trong Lòng Bàn Tay

Dẫn nhập của M.Ricard


Ta phải sống như thế nào? Sống thế nào cùng với xã hội? Ta phải biết điều gì? Đó là ba câu hỏi làm bận lòng nhân loại qua các thời đại. Thật là lý tưởng nếu cuộc đời chúng ta đưa đến một sự hoàn mãn từng phút từng giây cho đến ngày chúng ta lìa bỏ cõi đời này.

Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.

Những câu hỏi trên cũng nằm ở trung tâm điểm của khoa học, triết học, nghệ thuật, hoạt động xã hộitâm linh, chưa kể các lĩnh vực trên như đã xảy ra trong hiện tình xã hội ngày nay, làm thu hẹp tầm nhìn của chúng ta về cuộc sống. Nếu chúng ta không có sự minh triết và lòng vị tha, khoa học và chính trị sẽ là những con dao hai lưỡi, đạo lý sẽ bị bỏ quên, nghệ thuật trở nên nhảm nhítâm linh thì hão huyền.

Từ thế kỷ 17, thời điểm của cách mạng khoa học, cho đến ngày nay, một số người ngày càng nhiều đã xem khoa học đồng nghĩa với sự hiểu biết. Sự thu nhập thông tin được nuôi dưỡng bởi khoa học càng ngày càng bành trướng và chưa có dấu hiệu chậm lại. Song song, tôn giáo càng ngày càng suy tàn trong các xã hội dân chủngoại đạo, cũng như bị quy định trong các xã hội khác. Cốt lõi của tôn giáo là tình yêu và lòng bi mẫn đã từng chịu nhiều thử thách trong lịch sử nhân loại. Những truyền thống tâm linh, giáo điều hay thực nghiệm, ngoài cái khía cạnh siêu hình, thường đem đến những lời khuyên đạo lý, sáng suốt nhưng đôi khi cũng có tính ràng buộc. Ngày nay, những lời khuyên ấy cũng mất dần giá trị, con người không còn tư tưởng hay hành động theo lời dạy của các tôn giáo dù rằng họ là tín đồ của các tôn giáo đó. Con người tin tưởng hơn vào khoa học và kỹ thuật mà họ nghĩ rằng nó giúp họ giải quyết mọi vấn đề của tương lai. Tuy nhiên, cũng có những người cho rằng cao vọng của khoa học là biết hết mọi thứ là điều rất viễn vông. Căn bản của khoa học bị giới hạn bởi lĩnh vực của tự nó đặt ra. Và nếu kỹ thuật đem đến những lợi ích to lớn, thì nó cũng đồng thời gây ra những thiệt hại không nhỏ. Hơn nữa khoa học không chỉ dẫn gì được cho cách phải sống như thế nào. Trên thực tế, khoa học không tốt cũng không xấu. Đưa nó đến tận mây xanh hay kéo nó xuống đất đen cũng không có nghĩa hơn việc tôn vinh hay chỉ trích sức mạnh. Một cánh tay đồng thời có thể giết người hay cứu người. Những nhà khoa học không tốt cũng không xấu hơn những người bình thường khi chạm trán đến những vấn đề đạo lý do những phát minh của họ gây ra.

Khoa học không đem đến sự minh triết. Nó có thể tác động lên thế gian, nhưng chỉ những đức hạnh con người mới hướng dẫn được cuộc sống của họ. Những đức hạnh chỉ có thể nảy sinh được từ một khoa học tâm linh, mà tâm linh không phải là một món đồ xa xỉ, nhưng là thật sự cần thiết. Trong vòng hai mươi năm trở lại đây, cuộc đối thoại giữa Phật giáo và Khoa học theo sự gợi ý của đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều nhân vật Phật giáo khác. Từ năm 1987 theo đề xướng của một nhà doanh nghiệp Adam Enfle và bác sĩ chuyên khoa thần kinh sinh vật Francisco Varela nhiều cuộc hội thoại đã được thường xuyên tổ chức giữa đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều nhà bác học nổi tiếng (bác sĩ chuyên khoa thần kinh, sinh vật học, tâm lý học, vật lýtriết học). Một người trong nhóm đã nói: “Một trong những đặc tính lạ lùng của những cuộc hội thoại này là thái độ cởi mở nhưng hết sức nghiêm túc giữa những nhà khoa học và các Phật tử, tất cả đều mong ước mở rộng tâm linh bằng cách học hỏi các phương phápquan điểm của nhau. Từ những cuộc gặp gỡ được đặt tên là “Tâm và cuộc sống”, nhiều quyển sách đã được viết. Vài quyển được dịch ra tiếng Pháp như: “Những cây cầu nhỏ” (Passerelles), “Khi tâm đối thoại thân”, “Ngủ, Mơ và Chết” cũng như những bài viết của Allan Wallace “Khoa học và Phật giáo”

Phật giáo nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc giải thích bản thể của tâm bằng thiền định. Trải qua nhiều thế kỷ các Phật tử đã tìm ra cách tiếp cận thật nghiêm chỉnh việc tìm hiểu các trạng thái tinh thầnbản thể rốt ráo của “tâm”. Tâm đứng đằng sau mọi hoạt động trong đời sống, là cửa sổ giúp ta cảm nhận thế giới. Chỉ cần một thay đổi nhỏ ở trung tâm thì thế gian này sẽ hoàn toàn đảo lộn. Dù những khám phá của Phật giáo có sâu sắc đến đâu đi chăng nữa, chúng ta cũng nên luôn luôn nhớ rằng giáo lý Phật giáo không hề có tính cách giáo điều. Nó gần như một bản đồ chỉ đường để chúng ta đi theo người hướng dẫn. Phật giáo sẵn sàng sửa sai nếu biết mình lầm lỗi. Không phải vì nó nghi ngờ tính chân thật của những khám phá hay chờ đợi các khám phá đó được công khai nhìn nhận, nhưng vì chúng đã thật sự được trải nghiệm. Trong việc đi tìm kiến thức, Phật giáo không trốn tránh sự mâu thuẫn, trái lại còn nuôi dưỡng nó. Trong những cuộc hội thảo siêu hình mà Phật giáo tham dự trải qua nhiều thế kỷ với các triết gia Ấn Độ cũng như với giới khoa học và các tôn giáo khác, Phật giáo đã có cơ hội tu chỉnh, mở rộng các quan điểm triết học, luân lý của mình trong việc tìm hiểu thế gian.

Nhưng thái độ cởi mở của Phật giáo không phải là một thái độ cơ hội rẻ tiền. Những đóng góp lớn lao cho Triết học, những thảo luận về thiền định sâu sắc, gợi cảm và việc thực hành thiền định đòi hỏi một quyết tâm cao với một sự kiên nhẫn không gì lay chuyển được. “Không nên hy vọng một sự thành tựu mau chóng, nhưng cứ tiếp tục thiền định đến hơi thở cuối cùng”. Đó là lời của Tổ Milarepa. Sự chuyển hóa nội tâm dẫn đến Giác Ngộ, thuộc về một lĩnh vực hoàn toàn khác hẳn với công việc tìm tòi triết học hay khám phá khoa học.

Phật giáo cơ bản là một khoa học của sự tỉnh thức. Những cuộc đối thoại sau đây không nhằm mục đích mang lại cho khoa học một dáng vẻ thần bí hoặc bênh vực cho Phật giáo dựa vào các khám phá khoa học. Thật ra là để đặt lại vị trí của Khoa học trong bối cảnh một quan điểm rộng rãi hơn về đời sống tâm linhkinh nghiệm đóng một vai trò cốt yếu, cũng là để nối kết cách nhìn các hiện tượng xuất hiện cũng như thực chất của chúng, để có thể chỉ ra là Phật giáo có thể giải quyết được sự đối kháng giữa thực tại, chủ trương rằng các hiện tượng là có thực và các khám phá vật lý đi ngược lại cách nhìn này.

Cuộc đối thoại này cũng phản ánh lại hai mảng đời: một là của nhà vật lý thiên văn Á Đông muốn đối chiếu những kiến thức Khoa học của mình với các kiến thức triết học và hai là của một nhà khoa học Tây phương trở thành một tu sĩ Phật giáo mà những kinh nghiệm cá nhân đã đưa đến sự so sánh giữa hai cách tiếp cận thực tại.

Có ba nền văn hóa giao lưu của Trịnh Xuân Thuận ở Việt, Pháp và Mỹ. Sinh tại Hà Nội năm 1948 giữa cuộc chiến tranh thuộc địa, sáu năm trước thảm bại của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ, ông học ở các trường Tiểu và Trung học Pháp tại Sài Gòn. Chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp, năm 1966 ông quyết định sang Pháp để theo học ngành vật lý vì ông nghĩ sẽ tìm ra câu trả lời cho ông về bản thể của thế giới. Nhưng bài diễn văn quan trọng của Tướng De Gaulle kêu gọi quân đội Mỹ rút khỏi Đông Nam Á đã làm đảo lộn kế hoạch của ông. Chính phủ Việt Nam thời ấy cắt đứt quan hệ với Pháp nên người Việt không còn có thể sang Pháp du học. Sau một năm ở Thụy Sĩ trong trường Đại học Bách khoa Lausaune, ông sang Mỹ và được nhận vào Caltech (Đại học Kỹ thuật California) đỉnh cao của các nhà vật lý thiên văn. Vào năm 1967, Trung tâm Caltech có viễn vọng kính Palomar lớn nhất thế giới. Cũng tại đây, với sự hiện diện của Edwin Hubble, người ta đã khám phá ra thiên hà và sự trương nở của vũ trụ.

Thời gian theo học của giáo sư Thuận trùng hợp với việc khám phá nhiều hiện tượng mới về bầu trời. Chính giáo sư cũng đã từng nói: “Ở giữa các khám phá rộn ràng ấy, tôi không thể không trở thành nhà vật lý thiên văn được”. Từ đấy ông không ngừng quan sát vũ trụtrở thành một chuyên viên tầm cỡ trong việc giải thích sự hình thành các thiên hà. Hiện nay, ông là giáo sư diễn giảng ở Đại học Virginia.

Còn tôi, tôi theo đuổi việc nghiên cứu khoa học nhiều năm ở Viện Pasteur theo ngành di truyền tế bào của Giáo sư Francois Jacob giải Nobel về y học. Năm 67 tôi đi Ấn Độ để gặp đạo sư Kangyour Rinpotche và nhiều năm sau đó, cứ đến hè là tôi trở lại không khí vắng lặng, nơi ẩn cư của thầy tôi ở Darjeeling. Tôi vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu khoa học.

Nhưng đến năm 72, sau khi đã bảo vệ luận án tiến sĩ tôi quyết định sống ở Hi Mã Lạp Sơn. Tôi đã sống ở Ấn Độ, ở Bhoutan và ở Nepal. Nơi đây, tôi sống cạnh người thầy thứ hai của tôi Khyentse Rinpotche trong 12 năm. Tôi có dịp đi theo ông qua Tây Tạng học nhiều lần. Hiện nay, tôi sống ở Tu viện Shéchèn gần Katmandou. Vào mùa hè 1997, lần đầu tiên tại đại học Audorre, tôi đã gặp giáo sư Thuận và có cuộc thảo luận sôi nỗi trong những lần đi dạo trong khung cảnh hùng vĩ của núi rừng Piernées. Từ những cuộc trao đổi thân tình ấy, quyển sách này có dịp ra đời.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19843)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20911)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19253)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40512)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21247)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41046)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24091)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23036)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17828)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26940)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20717)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33622)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20994)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28897)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12687)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25281)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19131)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17514)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25769)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19001)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18970)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29011)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18899)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33314)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38382)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31233)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18219)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24490)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19446)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17891)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23036)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18019)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32182)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17379)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17427)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16068)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18565)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20764)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18063)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20104)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14876)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20903)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15069)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15760)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12937)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14506)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14904)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29391)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12767)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14518)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant