Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Dịch Giả/ Dẫn Nhập của Tác Giả

14 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7065)
Lời Dịch Giả/ Dẫn Nhập của Tác Giả

TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY

ĐỐI THỌAI GIỮA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO
Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

LỜI DỊCH GIẢ


Quyển sách này chúng tôi biên dịch theo cuốn “L’infini dans la paume de la main”, còn có tựa là “Le moine et l’Astro physician” của hai tác giả Matthieu Ricard và Trịnh Xuân Thuận.

Matthieu Ricard thì chúng ta đã biết qua quyển “Đạo sư và Triết gia” còn Trịnh Xuân Thuận là nhà vật lý thiên văn người Việt rất được ngưỡng mộ hiện nay trên thế giới. Giáo sư Thuận hiện là giáo sư diễn giảng ở Đại học Virginia Mỹ.

Quyển sách đề cập đến nhiều vấn đềPhật Giáo hằng quan tâm: sự hình thành của vũ trụ, hiện hữu hay không hiện hữu, nguồn gốc của Tâm, tánh không của các Pháp, tái sinhluân hồi v.v...

Quan điểm của Phật Giáo và Khoa học có nhiều điểm tương đồng và cũng rất nhiều điểm dị biệt. Muốn dung hợp những quan điểm có phần siêu hình của Phật Giáo với quan điểm thực nghiệm của Khoa học là một việc không dễ dàng gì. Do đó, cuốn sách khó đọc, khó hiểu, khó dịch cho sát nghĩa và như đã trình bày trong quyển “Đạo sư và Triết gia”, với vốn học Phật cũng như vốn ngoại ngữ còn rất hạn chế, chúng tôi đã gặp không ít khó khăn trong khi biên dịch. Chúng tôi đã tự động lược bỏ những chương, những đoạn mà chúng tôi thấy khó nắm bắt, cũng như không phù hợp với một cái nhìn chung về những vấn đề đã nêu.

Do đó, chắc chắn quyển sách sẽ có nhiều sai sót và lỗi phiên dịch, vì vậy một lần nữa kính nhờ các bậc tôn túc trong và ngoài Đạo vui lòng chỉ giáo và bổ chính.

 

Bác sĩ Hồ Hữu Hưng

Cẩn bút

 


 

Vũ Trụ Trong Lòng Bàn Tay

Dẫn nhập của M.Ricard


Ta phải sống như thế nào? Sống thế nào cùng với xã hội? Ta phải biết điều gì? Đó là ba câu hỏi làm bận lòng nhân loại qua các thời đại. Thật là lý tưởng nếu cuộc đời chúng ta đưa đến một sự hoàn mãn từng phút từng giây cho đến ngày chúng ta lìa bỏ cõi đời này.

Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.

Những câu hỏi trên cũng nằm ở trung tâm điểm của khoa học, triết học, nghệ thuật, hoạt động xã hộitâm linh, chưa kể các lĩnh vực trên như đã xảy ra trong hiện tình xã hội ngày nay, làm thu hẹp tầm nhìn của chúng ta về cuộc sống. Nếu chúng ta không có sự minh triết và lòng vị tha, khoa học và chính trị sẽ là những con dao hai lưỡi, đạo lý sẽ bị bỏ quên, nghệ thuật trở nên nhảm nhítâm linh thì hão huyền.

Từ thế kỷ 17, thời điểm của cách mạng khoa học, cho đến ngày nay, một số người ngày càng nhiều đã xem khoa học đồng nghĩa với sự hiểu biết. Sự thu nhập thông tin được nuôi dưỡng bởi khoa học càng ngày càng bành trướng và chưa có dấu hiệu chậm lại. Song song, tôn giáo càng ngày càng suy tàn trong các xã hội dân chủngoại đạo, cũng như bị quy định trong các xã hội khác. Cốt lõi của tôn giáo là tình yêu và lòng bi mẫn đã từng chịu nhiều thử thách trong lịch sử nhân loại. Những truyền thống tâm linh, giáo điều hay thực nghiệm, ngoài cái khía cạnh siêu hình, thường đem đến những lời khuyên đạo lý, sáng suốt nhưng đôi khi cũng có tính ràng buộc. Ngày nay, những lời khuyên ấy cũng mất dần giá trị, con người không còn tư tưởng hay hành động theo lời dạy của các tôn giáo dù rằng họ là tín đồ của các tôn giáo đó. Con người tin tưởng hơn vào khoa học và kỹ thuật mà họ nghĩ rằng nó giúp họ giải quyết mọi vấn đề của tương lai. Tuy nhiên, cũng có những người cho rằng cao vọng của khoa học là biết hết mọi thứ là điều rất viễn vông. Căn bản của khoa học bị giới hạn bởi lĩnh vực của tự nó đặt ra. Và nếu kỹ thuật đem đến những lợi ích to lớn, thì nó cũng đồng thời gây ra những thiệt hại không nhỏ. Hơn nữa khoa học không chỉ dẫn gì được cho cách phải sống như thế nào. Trên thực tế, khoa học không tốt cũng không xấu. Đưa nó đến tận mây xanh hay kéo nó xuống đất đen cũng không có nghĩa hơn việc tôn vinh hay chỉ trích sức mạnh. Một cánh tay đồng thời có thể giết người hay cứu người. Những nhà khoa học không tốt cũng không xấu hơn những người bình thường khi chạm trán đến những vấn đề đạo lý do những phát minh của họ gây ra.

Khoa học không đem đến sự minh triết. Nó có thể tác động lên thế gian, nhưng chỉ những đức hạnh con người mới hướng dẫn được cuộc sống của họ. Những đức hạnh chỉ có thể nảy sinh được từ một khoa học tâm linh, mà tâm linh không phải là một món đồ xa xỉ, nhưng là thật sự cần thiết. Trong vòng hai mươi năm trở lại đây, cuộc đối thoại giữa Phật giáo và Khoa học theo sự gợi ý của đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều nhân vật Phật giáo khác. Từ năm 1987 theo đề xướng của một nhà doanh nghiệp Adam Enfle và bác sĩ chuyên khoa thần kinh sinh vật Francisco Varela nhiều cuộc hội thoại đã được thường xuyên tổ chức giữa đức Đạt Lai Lạt Ma và nhiều nhà bác học nổi tiếng (bác sĩ chuyên khoa thần kinh, sinh vật học, tâm lý học, vật lýtriết học). Một người trong nhóm đã nói: “Một trong những đặc tính lạ lùng của những cuộc hội thoại này là thái độ cởi mở nhưng hết sức nghiêm túc giữa những nhà khoa học và các Phật tử, tất cả đều mong ước mở rộng tâm linh bằng cách học hỏi các phương phápquan điểm của nhau. Từ những cuộc gặp gỡ được đặt tên là “Tâm và cuộc sống”, nhiều quyển sách đã được viết. Vài quyển được dịch ra tiếng Pháp như: “Những cây cầu nhỏ” (Passerelles), “Khi tâm đối thoại thân”, “Ngủ, Mơ và Chết” cũng như những bài viết của Allan Wallace “Khoa học và Phật giáo”

Phật giáo nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc giải thích bản thể của tâm bằng thiền định. Trải qua nhiều thế kỷ các Phật tử đã tìm ra cách tiếp cận thật nghiêm chỉnh việc tìm hiểu các trạng thái tinh thầnbản thể rốt ráo của “tâm”. Tâm đứng đằng sau mọi hoạt động trong đời sống, là cửa sổ giúp ta cảm nhận thế giới. Chỉ cần một thay đổi nhỏ ở trung tâm thì thế gian này sẽ hoàn toàn đảo lộn. Dù những khám phá của Phật giáo có sâu sắc đến đâu đi chăng nữa, chúng ta cũng nên luôn luôn nhớ rằng giáo lý Phật giáo không hề có tính cách giáo điều. Nó gần như một bản đồ chỉ đường để chúng ta đi theo người hướng dẫn. Phật giáo sẵn sàng sửa sai nếu biết mình lầm lỗi. Không phải vì nó nghi ngờ tính chân thật của những khám phá hay chờ đợi các khám phá đó được công khai nhìn nhận, nhưng vì chúng đã thật sự được trải nghiệm. Trong việc đi tìm kiến thức, Phật giáo không trốn tránh sự mâu thuẫn, trái lại còn nuôi dưỡng nó. Trong những cuộc hội thảo siêu hình mà Phật giáo tham dự trải qua nhiều thế kỷ với các triết gia Ấn Độ cũng như với giới khoa học và các tôn giáo khác, Phật giáo đã có cơ hội tu chỉnh, mở rộng các quan điểm triết học, luân lý của mình trong việc tìm hiểu thế gian.

Nhưng thái độ cởi mở của Phật giáo không phải là một thái độ cơ hội rẻ tiền. Những đóng góp lớn lao cho Triết học, những thảo luận về thiền định sâu sắc, gợi cảm và việc thực hành thiền định đòi hỏi một quyết tâm cao với một sự kiên nhẫn không gì lay chuyển được. “Không nên hy vọng một sự thành tựu mau chóng, nhưng cứ tiếp tục thiền định đến hơi thở cuối cùng”. Đó là lời của Tổ Milarepa. Sự chuyển hóa nội tâm dẫn đến Giác Ngộ, thuộc về một lĩnh vực hoàn toàn khác hẳn với công việc tìm tòi triết học hay khám phá khoa học.

Phật giáo cơ bản là một khoa học của sự tỉnh thức. Những cuộc đối thoại sau đây không nhằm mục đích mang lại cho khoa học một dáng vẻ thần bí hoặc bênh vực cho Phật giáo dựa vào các khám phá khoa học. Thật ra là để đặt lại vị trí của Khoa học trong bối cảnh một quan điểm rộng rãi hơn về đời sống tâm linhkinh nghiệm đóng một vai trò cốt yếu, cũng là để nối kết cách nhìn các hiện tượng xuất hiện cũng như thực chất của chúng, để có thể chỉ ra là Phật giáo có thể giải quyết được sự đối kháng giữa thực tại, chủ trương rằng các hiện tượng là có thực và các khám phá vật lý đi ngược lại cách nhìn này.

Cuộc đối thoại này cũng phản ánh lại hai mảng đời: một là của nhà vật lý thiên văn Á Đông muốn đối chiếu những kiến thức Khoa học của mình với các kiến thức triết học và hai là của một nhà khoa học Tây phương trở thành một tu sĩ Phật giáo mà những kinh nghiệm cá nhân đã đưa đến sự so sánh giữa hai cách tiếp cận thực tại.

Có ba nền văn hóa giao lưu của Trịnh Xuân Thuận ở Việt, Pháp và Mỹ. Sinh tại Hà Nội năm 1948 giữa cuộc chiến tranh thuộc địa, sáu năm trước thảm bại của quân đội Pháp ở Điện Biên Phủ, ông học ở các trường Tiểu và Trung học Pháp tại Sài Gòn. Chịu ảnh hưởng của văn hóa Pháp, năm 1966 ông quyết định sang Pháp để theo học ngành vật lý vì ông nghĩ sẽ tìm ra câu trả lời cho ông về bản thể của thế giới. Nhưng bài diễn văn quan trọng của Tướng De Gaulle kêu gọi quân đội Mỹ rút khỏi Đông Nam Á đã làm đảo lộn kế hoạch của ông. Chính phủ Việt Nam thời ấy cắt đứt quan hệ với Pháp nên người Việt không còn có thể sang Pháp du học. Sau một năm ở Thụy Sĩ trong trường Đại học Bách khoa Lausaune, ông sang Mỹ và được nhận vào Caltech (Đại học Kỹ thuật California) đỉnh cao của các nhà vật lý thiên văn. Vào năm 1967, Trung tâm Caltech có viễn vọng kính Palomar lớn nhất thế giới. Cũng tại đây, với sự hiện diện của Edwin Hubble, người ta đã khám phá ra thiên hà và sự trương nở của vũ trụ.

Thời gian theo học của giáo sư Thuận trùng hợp với việc khám phá nhiều hiện tượng mới về bầu trời. Chính giáo sư cũng đã từng nói: “Ở giữa các khám phá rộn ràng ấy, tôi không thể không trở thành nhà vật lý thiên văn được”. Từ đấy ông không ngừng quan sát vũ trụtrở thành một chuyên viên tầm cỡ trong việc giải thích sự hình thành các thiên hà. Hiện nay, ông là giáo sư diễn giảng ở Đại học Virginia.

Còn tôi, tôi theo đuổi việc nghiên cứu khoa học nhiều năm ở Viện Pasteur theo ngành di truyền tế bào của Giáo sư Francois Jacob giải Nobel về y học. Năm 67 tôi đi Ấn Độ để gặp đạo sư Kangyour Rinpotche và nhiều năm sau đó, cứ đến hè là tôi trở lại không khí vắng lặng, nơi ẩn cư của thầy tôi ở Darjeeling. Tôi vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu khoa học.

Nhưng đến năm 72, sau khi đã bảo vệ luận án tiến sĩ tôi quyết định sống ở Hi Mã Lạp Sơn. Tôi đã sống ở Ấn Độ, ở Bhoutan và ở Nepal. Nơi đây, tôi sống cạnh người thầy thứ hai của tôi Khyentse Rinpotche trong 12 năm. Tôi có dịp đi theo ông qua Tây Tạng học nhiều lần. Hiện nay, tôi sống ở Tu viện Shéchèn gần Katmandou. Vào mùa hè 1997, lần đầu tiên tại đại học Audorre, tôi đã gặp giáo sư Thuận và có cuộc thảo luận sôi nỗi trong những lần đi dạo trong khung cảnh hùng vĩ của núi rừng Piernées. Từ những cuộc trao đổi thân tình ấy, quyển sách này có dịp ra đời.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34372)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16878)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22982)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13060)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21975)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22199)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14873)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23594)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24129)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23653)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17153)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19368)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27083)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14429)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13851)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22699)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14761)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17366)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12687)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13877)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10419)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14716)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17207)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12554)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12724)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10380)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28723)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10713)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11139)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16884)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15786)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13348)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12565)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11375)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13036)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19317)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12255)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28632)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10057)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21536)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12801)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17832)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26257)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11715)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10858)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22764)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12052)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10617)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11422)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11542)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant