Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Thần canh giữ sa mạc

07 Tháng Ba 201100:00(Xem: 5510)
Chương 2: Thần canh giữ sa mạc

AI CẬP HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 2 : THẦN CANH GIỮ SA MẠC

Các vì tinh tú vẫn đua nhau chớp trên nền trời xanh thẫm. Con trăng thượng tuần vẫn tiếp tục chiếu rạng trên đỉnh đầu chúng tôi. Thần tượng Sphinx có vẻ như biến đổi màu sắc nhưng vẫn vươn mình một cách hùng dũng dưới ánh trăng bạc. Tôi day đầu nhìn qua bên trái là nơi mà trong linh ảnh vừa rồi tôi đã nhìn thấy biển cả gầm thét như sấm động và nuốt trôi cả vùng đất liền.

Một con dơi, có lẽ lầm tưởng tôi là phiến đá vô tri bất động như cái bối cảnh chung quanh, vỗ đôi cánh bay xẹt ngang sát cạnh đầu tôi rồi vụt mất, làm cho tôi có một cảm giác ghê tởm và rờn rợn chạy dọc theo trong xương sống. Tôi nghĩ có lẽ nó vừa chui ra từ trong một nấm mồ chôn xác ướp mà người ta vừa khai quật ở vùng gần bên.

Tôi ngắm nhìn cái đồng cát mênh mông chiếm trọn một diện tích hơn ba triệu rưỡi dặm vuông của vùng sa mạc Sahara, kéo dài đến tận chân trời rồi nối liền với một dãy núi đồi dài dựng đứng như thành quách, che chở xứ Ai Cập và vùng châu thổ sông Nile. Thiên nhiên dường như cố ý dựng lên những dãy đồi của xứ Libye để bảo toàn cho Ai Cập khỏi bị chôn vùi dưới đống cát của bãi sa mạc này.

Mối nguy cơ đó là một sự thật hiển nhiên. Mỗi năm, vào đầu mùa xuân, một trận cuồng phong với sức mạnh và tốc độ kinh khủng, khai chiến với vùng Bắc Phi và thổi mạnh như vũ bão từ bờ biển Đại Tây Dương, xuyên qua trọn cả vùng lục địa Châu Phi. Chẳng khác nào một đạo binh xâm lược khát máu và bạo tàn, trận gió lớn ấy đi đến đâu thì cát bụi dậy theo đến đấy. Những cơn trốt xoáy cuốn cát bụi đi theo thành những cơn bão cát gieo sự tàn phá khắp nơi, chôn lấp nhà cửa, dinh thự, đền đài, và thậm chí chôn vùi trọn cả những thành phố. Đó là sức mạnh của những hạt cát vàng, ngự trị khắp vùng này như một lãnh chúa quyền uy vô địch.

Sức mạnh của những cơn bão cát có thể làm cho nền trời hoàn toàn sẫm tối và che khuất cả mặt trời. Những cơn trốt xoáy cuốn cát dậy lên dày đặc như sa mù ở Luân Đôn và di chuyển hết tốc lực, rồi nếu không có gì ngăn chận, nó sẽ quét sạchchinh phục mọi chướng ngại trên đường đi tới.

Tôi nhìn pho tượng đá Sphinx, những nét trên mặt nó chỉ hiện ra một cách mờ ảo dưới ánh sao khuya, nhưng cái miệng của nó, bề rộng có đến hai thước, như đượm một vẻ bi thương đến mức gần như rùng rợn, khác hẳn với nụ cười hồn nhiên của nhân vật hiện ra trong linh ảnh của tôi khi nãy, là biểu tượng Sphinx của buổi sơ khai, của thời đại Atlantide.

Những cơn gió bão của sa mạc thổi với tốc độ cuồng loạn đã tàn phá gương mặt của nó, cùng với sự hủy hoại do bàn tay phũ phàng thô bạo của những kẻ phàm phu không hề biết kính trọng thánh thần!

Điều tất nhiên là những cơn bão cát đã tấn công hình tượng này, khi thì âm thầm che lấp bao phủ, khi thì ào ào cọ sát với cơn thịnh nộ của vũ bão. Nó đã từng bị chôn lấp hay chăng? Điều đó đã không còn phải nghi ngờ gì nữa. Tôi nhớ đến giấc mộng huyền bí mà vua Thoutmès IV đã kể lại bằng chữ ám tự (Hiéroglyphes) khắc trên phiến đá đỏ dựng lên giữa hai chân con sư tử đá. Tôi cũng nhớ lại lời than thở của nó trong giấc mộng của nhà vua vừa kể, khi nó bị cát chôn lấp đến cổ:

– Cát sa mạc đã chôn lấp ta (vị thần che chở của nó nói), ta càng ngày càng bị chôn sâu hơn. Hãy mau ra tay dẹp cát đi, rồi ta sẽ xem các ngươi như con ta và như người trợ giúp ta.

Khi tỉnh giấc, vua Thoutmès nghĩ thầm rằng:

– Dân chúng trong thành chỉ biết tôn sùng vị thần này, mà chưa một người nào từng nghĩ đến việc giải tỏa pho tượng của ngài khỏi bị cát chôn lấp.

Những hình vẽ trên phiến đá vẽ cảnh nhà vua đang dâng hương cho thần tượng Sphinx, kế đó là bài tường thuật giấc mộng lạ lùng của nhà vua, khắc bằng chữ ám tự:

“Hoàng thân Thoutmès cùng vài người bạn đi săn trong vùng Gizeh, ở ven sa mạc. Trên đường về hướng nam, hoàng thân đã tập bắn cung vào những tấm bia bằng đồng, săn sư tửcác loại thú dữ của sa mạc, và tập dong xe với những con tuấn mã chạy nhanh hơn gió. Vào lúc giữa trưa, hoàng thân ngừng cuộc du hí vì đã quá mệt mỏi. Sau khi dùng cơm trưa xong, người muốn nghỉ ngơi đôi chút, bèn cho kẻ tùy tùng lui bước. Trước khi nằm nghỉ, hoàng thân đọc kinh cầu nguyện các thần linh. Trong giấc ngủ mê, thần Thái Dương Râ nói với hoàng thân như một người cha nói với con: – Ta nhìn thấy con đây, Thoutmès, con hỡi! Ta là Herou Khout cha của con, ta muốn cho con giang sơn này. Con sẽ kế nghiệp trên ngai vàng, giang sơn bờ cõi này sẽ thuộc về con tất cả, con sẽ sở hữu những tài nguyên phong phú của xứ Ai Cập và những lân quốc sẽ đem đồ bảo vật đến cống hiến cho con!”

Giấc mộng kết thúc bằng lời kêu gọi khẩn thiết hãy giải tỏa thần tượng Sphinx ra khỏi đống cát phũ phàng nếu hoàng thân muốn kế nghiệp giang sơn Ai Cập như đã hứa. Hoàng thân Thoutmès bèn triệt để tuân theo những lời kêu gọi trong giấc mộng, và dùng một số nhân công rất lớn để giải tỏa những đống cát bao phủ thần tượng Sphinx ngập lên đến ngực.

Hérou-Khout, vị thần linh che chở hình biểu tượng Sphinx đã giữ đúng lời hứa. Hoàng thân được truyền ngôi và lên làm vua xứ Ai Cập, vượt qua cả những người anh lớn trong hoàng gia. Sau khi lên ngôi, Thoutmès IV đã đem quân đi chinh phạt các lân quốc, luôn luôn thắng trận và mở rộng bờ cõi, hình thành một đế quốc gồm thâu luôn cả xứ Mésopotamie ở phía đông, xứ Nubie ở phía nam, xứ Lybie ở phía tây, trong khi những đồ bảo vật cống hiến được đưa đến từ xứ Ethiopie, đúng như giấc mộng đã tiên đoán.

Dưới triều đại của nhà vua, tài nguyên sung túc, quốc gia phồn thịnh, nền văn minh Ai Cập đạt tới một trình độ cao tột chưa từng có, thật cũng hoàn toàn đúng như lời báo trước trong giấc mộng.

Những sự việc kể trên không phải là chuyện huyền thoại hoang đường, mà là những sự kiện có thật trong lịch sử. Vì người cổ Ai Cập, hơn cả những dân tộc khác của thời đại cổ xưa, đã chép sử một cách chu đáo, xác thực và tinh vi đến nỗi những sự việc xảy ra trong lịch sử của họ được khắc sâu trên những tảng đá, để có thể tồn tại lâu bền hơn giấy mực và sách vở.

lll

Những đốm sao đã lần lượt biến mất trên nền trời xanh đậm. Tôi hiểu rằng đêm thức sáng trắng của tôi đã gần chấm dứt. Tiết trời ban đêm khá lạnh, nhưng tôi lại cảm thấy cổ họng khô và nóng. Một lần nữa, tôi đưa mắt nhìn thần tượng bằng đá uy nghiêm, tượng trưng một cách tuyệt diệu cho đấng thần minh câm lặng và tối cao có phận sự chăm nom gìn giữ bầu thế giới. Phải chăng tôi vừa lật ra được một trang bí sử của thời tối cổ Ai Cập? Có ai dám dám ước đoán tuổi của thần tượng Sphinx? Nếu người ta chấp nhận rằng nguồn gốc của nó truy nguyên ở châu Atlantide, làm sao có thể định cho nó một năm tháng ngày giờ nhất định?

Tuy vậy tôi không có lý do để loại bỏ cái nguồn gốc đó, nó đã được phác họa một cách sơ lược trong linh ảnh của tôi dưới ánh sao khuya. Châu Atlantide không còn là một chuyện hư ảo của những triết gia Hy Lạp, những tăng lữ Ai Cập và những bộ lạc thổ dân châu Mỹ. Không thiếu gì những nhà bác học, mỗi vị tiêu biểu cho ngành học thuật chuyên môn của mình, đã thâu lượm hàng trăm bằng chứng cụ thể để chứng minh rằng châu ấy có thật. Tôi cũng hiểu rằng, khi thần tượng Sphinx được tạc trong khối đá thì vùng châu thổ chung quanh không thể đã bị cát bao phủ, vì với sự chướng ngại của đồng cát, một công trình vĩ đại như thế không thể nào thực hiện được. Như vậy điều hợp lý nhất là người ta phải nhìn nhận rằng công trình điêu khắc này đã có trước khi đồng bằng châu thổ bị cát chôn lấp, khi vùng sa mạc Sahara đang còn là một biển lớn, và ở phía ngoài vùng biển đó là một lục địa đã có một định mệnh bi thảm, tức châu Atlantide.

Dân Ai Cập thời tiền sử, những người đã tạc thần tượng Sphinx và là chủ nhân của nền văn minh cổ nhất thế giới, đã từ châu Atlantide đến lập quốc tại vùng châu thổ sông Nile trong một cuộc di cư khổng lồ. Cuộc di cư đó có thể đã được thực hiện trước khi châu Atlantide sụp đổ và chìm sâu xuống đáy Đại Tây Dương, một cơn tai biếnhậu quả là làm cho biển lớn khô cạn và trở thành một vùng sa mạc mênh mông.

Những vỏ sò, vỏ hến rải rác ở nhiều nơi và những bộ xương cá khổng lồ mà người ta tìm thấy chôn vùi dưới cát chứng tỏ rằng đồng cát này ngày xưa chính là đáy đại dương trồi lên. Thật cảm động thay khi biết rằng thần tượng Sphinx là một sợi dây liên lạc bền vững, cụ thể, bất biến giữa những thế hệ của nhân loại chúng ta ngày nay với những thế hệ cổ xưa của một thế giới đã suy tàn, thế giới của người Atlante đã biệt tích!

Đối với thế giới hiện đại, biểu tượng này đã mất đi cái ý nghĩa ban đầu. Nó chỉ còn là một kỳ quan của địa phương, thế thôi. Nhưng nó đã từng có ý nghĩa gì đối với người Atlante? Để có một ý niệm đại cương, người ta phải sưu tầm những di tích văn minh mà những dân tộc thuộc nguồn gốc châu Atlantide đã để lại. Người ta phải truy nguyên, qua những nghi lễ đã suy tàn hoặc biến dạng của những thổ dân Incas hay Mayas, đến sự thờ phượng thuần khiết hơn thuộc về tổ tiên của các dân tộc này. Những sự sưu tầm đó giúp ta khám phá ra đối tượng cao nhất của sự thờ phượng đó là ánh sáng, biểu hiện bởi mặt trời. Bởi lẽ đó, họ dựng lên khắp nơi bên châu Mỹ thời cổ những ngôi đền hình kim tự tháp để thờ mặt trời. Những ngôi đền đó đều là những kiến trúc đồng một kiểu, hoặc có sửa đổi hình dáng chút ít, với những ngôi đền tương tự đã từng có ở châu Atlantide.

Khi Platon đến Ai Cập để học đạo tại thành Heliopolis trong mười ba năm, những vị tăng lữ Ai Cập, thường vẫn rất dè dặt đối với ngoại nhân, đã ban cho người đệ tử Hy Lạp trẻ tuổi và hăng say này cái hân hạnh là được nhận truyền thụ những giáo điều rút trong kho tài liệu bí mật mà họ giữ gìn rất kỹ lưỡng. Trong số những điều tiết lộ, họ nói cho ông biết rằng một kim tự tháp lớn, nóc bằng, từ xưa đã được xây dựng tại trung tâm đảo Atlantide và trên nóc bằng đó, người ta đã dựng lên ngôi đền chính của vùng lục địa để thờ phụng thần Thái Dương.

Những người Atlante di cư sang Ai Cập đem theo nền tôn giáo của họ và xây dựng tại đây những ngôi đền cùng một kiểu như ở Atlantide. Cái di sản đó của người Atlante có thể biểu lộ những đặc tính của nó ngày nay ở những cột trụ khổng lồ nơi các cổng đền và những lăng tẩm hình kim tự tháp ở Ai Cập.

Ngoài ra, thần Mặt Trời luôn luôn chiếm một vị trí hàng đầu trong các vị thần của Ai Cập. Người Atlante cũng đem vào Ai Cập kỹ thuật điêu khắc đại qui mô cùng cái thẩm mỹ tạc tượng khổng lồ bằng đá. Những đền cổ đã điêu tàn ở Mehico, Pérou và Yucatan do người Atlante dựng lên được xây bằng những khối đá to lớn với những chỗ ráp nối rất tinh vi khéo léo, có một kiểu kiến trúc giống như của Ai Cập, cũng như những tượng thần khổng lồ bên trong các thánh điện ở các xứ ấy và ở Ai Cập đều có những nét tương tự như nhau.

Như thế, một điểm sáng nhỏ đã lóe lên trong cuộc sưu tầm của chúng ta về ý nghĩa của thần tượng Sphinx. Người Atlante ở xứ cổ Ai Cập có lẽ muốn dựng nó lên như một pho tượng vĩ đại nhất, hình ảnh của một ý niệm thiêng liêng nhất ghi trong ký ức của họ, mà họ muốn hiến dâng cho vị thần của ánh sáng, tức thần Mặt Trời. Có lẽ họ cũng đã dựng lên ở một nơi nào đó ngôi đền của vị thần ấy, ngôi đền này đối với họ cũng phải là ngôi đền vĩ đại nhất và cao trọng hơn tất cả mọi ngôi đền khác.

Thần tượng Sphinx bằng đá là biểu tượng tôn quí của một giống người tôn thờ ánh sáng như một cái gì gần nhất với thiêng liêng. Ánh sáng là một vật thể tinh vi, tế nhị nhất trong những sự vật mà con người có thể cảm xúc được bằng một trong năm giác quan. Đó là vật thanh nhẹ nhất mà khoa học có thể nhận biết bằng thực nghiệm; những luồng quang tuyến khác nhau đều là những loại ánh sáng rung động với tốc độ ngoài phạm vi tiếp nhận được bởi giác quan tự nhiên của con người. Trong quyển “Tạo thiên lập địa” cũng nói rằng ánh sáng là vật được sáng tạo trước tiên; không có nó thì không có sinh vật nào sống được. Moise đã viết trong quyển sách này:

Tinh thần của Thượng đế lướt trên mặt của vực thẳm, và Thượng đế nói: “Ánh sáng hãy hiện ra!” Và ánh sáng mới có.

Phải chăng đó cũng là một biểu tượng hoàn hảo của ánh sáng thiêng liêng xuất hiện từ chỗ sâu thẳm nhất của linh hồn khi con người hiến dâng trọn vẹn cả tâm hồn lẫn trí tuệ của mình cho Thượng Đế? Từ nơi mặt trời phát sinh ra ánh sáng, rồi ánh sáng mới tỏa ra khắp thế gian. Không có mặt trời, muôn loài vạn vật sẽ vĩnh viễn đắm chìm trong đêm tối rùng rợn, không còn cây cối thảo mộc, không còn gặt hái mùa màng, thậm chí loài người sẽ không còn tồn tại và sẽ biến mất khỏi mặt đất.

Nếu sự tôn thờ ánh sáng và mặt trời là cái nguyên lý chính yếu của nền tôn giáo châu Atlantide, nó cũng chiếm một địa vị tương đương trong nền tôn giáo cổ Ai Cập. Râ, thần Thái Dương, là vị chủ tể, là cha và đấng sáng tạo của tất cả các vị thần linh khác, là đấng sáng tạo ra vạn vật, bất sinh bất diệt.

Nếu thần tượng Sphinx thuộc về tôn giáo của ánh sáng, thì chắc hẳn nó cũng phải có liên hệ đến mặt trời. Vì sau khi tôi quay sang phía mặt trời mọc, tôi mới nhớ lại cái dĩa bằng vàng trong linh ảnh hiện ra trong trí tôi hồi đêm, và sự liên hệ đó xuất hiện ra với tôi mau như chớp nhoáng. Để thử lại cho chắc chắn, tôi mới xem kỹ lại một vật mà tôi đeo ở cổ tay phải, cái la bàn dạ quang, nó là một hướng dẫn viên chắc chắn và bạn tốt của tôi. Và tôi nhận thấy ngay rằng thần tượng Sphinx quay mặt đúng về hướng đông, đôi mắt vô tri giác của nó nhìn thẳng vào chỗ mà vầng thái dương bắt đầu xuất hiện mỗi ngày trên chân trời!

Việc định hướng đông là để tượng trưng cho sự sống tái diễn không ngừng; cũng y như thế, những lăng tẩm của các nhà vua Ai Cập được xây cất trên bờ phía tây sông Nil để tượng trưng cho sự sống đã qua, giống như mặt trời lặn.

Cũng như mặt trời lên cao tận giữa trời, thì con người, sau khi được phục sinh, sẽ thăng hoa lên cõi tinh thần. Cũng như vầng thái dương đi xuyên qua vòm trời rồi tiếp tục lộ trình, khuất mắt đối với chúng ta ở phía dưới chân trời, thì con người cũng phải đi nhiều vòng luân chuyển từ thế giới này sang thế giới khác. Con quái vật khổng lồ nơi đó biểu hiện sức mạnh của con sư tử, trí thông minh của con người và sự bằng an trầm lặng của một đấng thần minh, muốn dạy ta một chân lý bất hủ về sự cần làm chủ lấy mình, vì con ngườimục đích đối trị những thú tánh và khuất phục con vật nằm sẵn trong lòng mình.

Có ai từng ngắm nhìn cái thân mình to lớn bằng đá với những móng chân và móng vuốt sư tử, với cái đầu và gương mặt của một người cốt cách phong nhã như thần tượng Sphinx mà không thu thập lấy cái bài học sơ đẳng ấy? Ai có thể khám phá cái ý nghĩa của biểu tượng con rắn cobra phùng mang, tượng trưng cái uy quyền của vua Ai Cập mà các vị vua chúa thường gắn trên mão, mà không hiểu rằng biểu tượng Sphinx không phải khuyến khích ta thống trị kẻ khác mà hãy tự thắng chính mình? Nó là nhà truyền giáo câm lặng, một giáo sĩ bằng đá, thuyết giảng bằng sự im lặng cho những ai có tai biết nghe.

Phải chăng thần tượng Sphinx tượng trưng cho một vật có tính chất thiêng liêng? Đúng thế, nếu người ta tin theo những chữ khắc trên vách các ngôi đền ở miền thượng du Ai Cập, chẳng hạn như ở Edfou, nơi đó người ta thấy một vị thần biến hình thành con sư tử đầu người để chiến thắng Set, quỉ Satan Ai Cập.

Một sự kiện lạ lùng làm cho người ta nghĩ rằng thần tượng Sphinx có chứa đựng một bí mật kiến trúc nào đó và che dấu vài điều bí mật khắc trong đá. Rải rác khắp nơi ở Ai Cập, những thần tượng Sphinx kiểu nhỏ được dựng lên trước những ngôi đền miếu như là những vị thần canh gác và bảo vệ ngoài cổng thánh đường; trong vài trường hợp, ngoài cổng đền cũng có dựng lên những tượng sư tử bằng đá. Thậm chí những chìa khóa mở cửa đền cũng được đúc giống hình sư tử.

Thần tượng Sphinx ở Gizeh hình như là pho tượng duy nhất mà người ta không thấy đứng trước một ngôi đền nào. Vậy ngôi đền thật sự của hình biểu tượng Sphinx là ở đâu? Tôi ngửng đầu lên và nhìn về phía sau pho tượng đá. Từ chỗ tôi ngồi, tôi nhìn thấy hãy còn vươn lên một cách lu mờ dưới ánh sáng đầu tiên của buổi rạng đông, đưa thẳng lên trời cái mũi nhọn hơi bằng đầu, ngôi kiến trúc vĩ đại nhất của thế giới, cái kho tàng bí mật bằng đá chưa hề được giải đáp, cái phép lạ tuyệt vời của vũ trụ đối với cổ nhân và đối với cả chúng ta, bài toán đố bí hiểm của tất cả mọi thời đại, người bạn xứng đáng của thần tượng Sphinx khổng lồ: Ngọn Kim tự tháp!

Cả hai kỳ quan, được dựng lên từ hồi thời đại Atlantide, đều vươn mình như những bằng chứng của vùng lục địa đã sụp đổ, và như cái di sản câm lặng của một giống người đã biệt tích một cách cũng bí mật như vùng lục địa quê hương của họ. Cả hai kỳ quan đều như nhắc nhở cho hậu thế, những kẻ kế nghiệp giống người Atlante, biết về những thành tích huy hoàng của một nền văn minh đã mất.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14298)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14348)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13267)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14629)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12638)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25217)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27858)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26333)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17223)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15908)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22127)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17126)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24889)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21948)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21718)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16777)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14663)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16697)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25025)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14772)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16605)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18007)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12916)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12694)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28002)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27164)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14341)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20933)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14666)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24171)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28660)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14729)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13280)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16440)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27221)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16070)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21463)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant