Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương IX: Thiếu sinh học đường

09 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7093)
Chương IX: Thiếu sinh học đường

XỨ PHẬT HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG IX: THIẾU SINH HỌC ĐƯỜNG

Từ lâu tôi vẫn nuôi hoài bão gầy dựng một sự nghiệp giáo dục cho lớp thanh thiếu niên trẻ tuổi. Cơ sở của hoài bão này chính là vì tôi đã nhận ra sự khiếm khuyết của nền giáo dục vào thời bấy giờ. Ngoài những kiến thức khoa học, xã hội, nền tảng đạo đức tâm linh của con người đã không hề được đề cập đến trong suốt những năm học tập của các em.

Việc thực hiện một hoài bão như thế là quá sức to lớn đối với một tu sĩ như tôi. Tuy nhiên, tôi có một dự cảm là bằng cách này hay cách khác, rồi cũng có lúc tôi sẽ thực hiện thành công điều đó. Mặc dù vậy, tôi không chấp nhận việc chờ đợi một cách thụ động, mà luôn nôn nóng bắt tay thực hiện ước mơ của mình.

Với sự đồng ý của sư phụ Śrỵ Yukteswar, tôi thành lập một lớp học nhỏ ở Dihika, một thành phố nhỏ thuộc tỉnh Bengale. Lớp học ban đầu vỏn vẹn chỉ có 7 thiếu niên theo học, nhưng tôi đã bỏ công nghiên cứu, tự đề ra và khởi sự áp dụng một chương trình giáo dục mà tôi thấy là có thể mang lại cho các em những kiến thức toàn diện nhất.

Ngay trong năm sau, thật bất ngờ khi Quốc vương Kasimbazar thân hành đến viếng thăm tôi, nghe tôi trình bày ý tưởng của mình, và phát tâm hỗ trợ cho tôi trong việc thực hiện những ý tưởng ấy.

Nhờ sự hỗ trợ tích cực đó, tôi đã có thể đưa lớp học của mình về tại Ranchi, một thành phố thuộc tỉnh Bihar, cách Calcutta chừng 200 dặm.

Đây là một thành phố có khí hậu rất tốt lành, được xem là dễ chịu nhất trên toàn cõi Ấn Độ. Lớp học được phát triển thành một trường học với quy mô tương đối lớn mà tôi đặt tên là Thiếu Sinh Học Đường. Mọi phí tổn đều do Quốc vương Kasimbazar đài thọ.

Trường dạy đầy đủ các môn học phổ thông, nhưng kèm theo đó học sinh được học thêm về thiền định và một môn thể dục hỗ trợ cho phương pháp tu thiền gọi là Yogada, do chính tôi nghĩ ra vào hồi năm 1916.

Trường có khả năng chứa được khoảng 100 học sinh nội trú, nhưng qua một năm học, số học sinh đăng ký đã vượt quá xa con số đó. Vì thế, chúng tôi buộc phải mở thêm rất nhiều lớp ngoại trú.

Do quy mô của trường phát triển, tôi không thể dành thời gian trực tiếp giảng dạy mà chỉ phụ trách việc tổ chức. Tuy vậy, tôi vẫn đích thân lo việc chăm sóc cho các em học sinh nội trú.

Vì là một lãnh vực hoàn toàn mới mẻ, nên trong thời gian đầu tôi đã vấp phải không ít những khó khăn. Một mặt là những vấn đề về tổ chức, mặt khác là những tư tưởng đối nghịch khác trong xã hội. Bởi vì mọi người không phải ai ai cũng đều dễ dàng chấp nhận tin vào những lý tưởng bất vụ lợi của chúng tôi.

Tuy nhiên, tôi nhận được sự ủng hộ rất lớn từ sư phụ Śrỵ Yukteswar và cha tôi.

Sư phụ Śrỵ Yukteswar đã tiên liệu trước được mọi việc nên người có nói với tôi rằng:

– Khi con từ bỏ cuộc sống riêng tư để phụng sự những lý tưởng cao quý chung cho toàn xã hội, đó chính là từ bỏ những lo âu phiền lụy của một đời sống gia đình để nhận lấy phần trách nhiệm còn lớn lao to tát hơn nhiều. Đó là trách nhiệm đối với tất cả mọi người. Như vậy, con sẽ không sao tránh khỏi được sự hiểu lầmđố kỵ của những kẻ nhỏ nhen. Nhưng bù lại, con sẽ nhận được phần thưởng cao quý nhất là một sự an lạc, hạnh phúc trong tâm hồn.

Cha tôi cũng đã đích thân đến thăm tôi tại trường học. Trong một buổi đi dã ngoại với các học sinh của tôi, người nhìn thấy tôi vui vẻ giữa những thiếu nhi vây quanh và đã nói:

– Tuy cha chỉ có 8 người con, nhưng cha có thể hiểu được những gì con phải trải qua lúc này để lo cho bọn trẻ.

Trường học phát triển trên một khu đất rộng chừng 26 mẫu, với những cây cổ thụ che bóng mát và khung cảnh thiên nhiên rất thoáng đãng, xinh đẹp. Dựa vào ưu điểm đó, tôi đã tổ chức cho hầu hết các lớp học đều được học tập ngoài trời, ngay trong bầu không khí gần gũi với thiên nhiên rất thú vị.

Mỗi ngày, các em được hướng dẫn có những giờ ngồi thiền nhất định với sự chỉ dẫn cặn kẽkiểm tra thường xuyên. Ngoài ra, tôi cũng mời nhiều vị tu sĩ đáng kính đến tiếp xúc với các em như một phương thức để các em được trực tiếp học hỏi.

Một trong các tu sĩ ấy là Pranab, người ngày xưa đã từng thực hiện phép phân thân ở Bénarès. Tôi còn nhớ, khi ấy ông đã có dự báo về một cuộc gặp gỡ giữa ông với cha tôi và tôi. Không ngờ là cuộc gặp gỡ ấy lại diễn ra tại Thiếu Sinh Học Đường.

Nhìn thấy các lớp học đã được tổ chức đi vào nề nếp, Pranab nói với cha tôi:

Thật không ngờ rằng lý tưởng giáo dục của đức Lahiri Mahsaya ngày nay lại được thực hiện thành công bởi người con trai này của anh.

Cha tôi có vẻ lấy làm tự hào về lời khen tặng ấy.

Nhưng chuyến viếng thăm của Pranab có ý nghĩa nhiều hơn là một chuyến viếng thăm thông thường, bởi vì sau đó ít lâu thì chúng tôi được biết là sẽ vĩnh viễn không bao giờ còn được nhìn thấy vị tu sĩ này nữa!

Mang theo một số hạt giống và các dụng cụ cần thiết, Pranab đi lên một vùng hẻo lánh gần chân núi Hy Mã Lạp Sơnthành lập một đạo viện với những môn đồ tình nguyện đi theo ông. Một thời gian ngắn sau khi đã tổ chức xong đạo viện, ông thản nhiên từ bỏ cõi đời trong một tình trạng sức khỏe rất tốt, bất chấp việc ông đã khá lớn tuổi.

Người đệ tử lớn của ông là Sanandan thông báo việc ông ra đi cho tôi biết trong vài tháng sau đó. Anh đã kể lại trường hợp viên tịch của Pranab như tấm gương chói sáng của một bậc chân tu đã đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn trong tu tập.

° ° °

Trong khuôn viên trường, có một hồ nước mát. Một hôm, tôi dẫn các em thiếu nhi đến đó chơi và dặn các em:

– Các em không được phép lội xuống nước. Nếu muốn tắm, các em hãy dùng gáo múc nước lên trên bờ để tắm.

Sau một lúc đùa nghịch, có một vài em đã quên mất lời dặn của tôi và nhảy xuống nước tắm. Tuy các em bơi rất giỏi, nhưng vấn đề là dưới hồ có rất nhiều rắn nước. Khi phát hiện ra điều này, các em đã hốt hoảng nhảy vọt lên bờ và lấy làm ân hận đã không nghe lời dặn trước của tôi.

Sau khi tắm xong, tôi đưa các em lên dạo chơi trên một ngọn đồi và chúng tôi cùng ăn cơm trên một bãi cỏ. Sau đó, dưới bóng mát của một cây cổ thụ, các em đua nhau đặt với tôi rất nhiều câu hỏi. Dưới mắt các em, có vẻ như tôi là người biết hết tất cả mọi chuyện.

Trong số các em này, có một bé trai chừng 12 tuổi tên là Kashi, khuôn mặt rất sáng sủa nhưng bản tính rụt rè. Sau khi đứng yên một lúc lâu nhìn các bạn vây quanh hỏi tôi đủ mọi vấn đề, em mới rón rén lại gần và hỏi:

– Bạch thầy, về sau này con có thể xuất gia như thầy được chăng?

Một câu hỏi khá chín chắn làm tôi hơi giật mình. Tôi lặng nhìn em một chút rồi buột miệng nói ra không tự kiềm chế được:

– Tiếc thay, em sẽ phải chết một ngày gần đây thôi.

Vừa nói xong lời tiên tri ấy, tôi đã lấy làm hối hận ngay. Quả thật, câu nói đã phá hỏng niềm vui của thời gian còn lại trong ngày hôm ấy, vì tất cả các em đều lấy làm buồn rầu thay cho số phận của người bạn mình.

Khi về trường, Kashi tìm đến phòng tôi. Trước sự ngạc nhiên của tôi, em có vẻ rất bình tĩnh trước lời tiên tri chẳng lấy gì làm tốt đẹp của tôi:

– Bạch thầy, sau khi con chết, có thể nào con sẽ gặp lại thầy trong một kiếp sau để tiếp tục được thầy dẫn dắt hay không?

Tôi nhìn em một lúc rồi nói:

– Nếu chúng ta có đủ nhân duyên với nhau, thầy hứa sẽ không bao giờ quên em.

Sau đó ít lâu, tôi có việc phải đi xa trong một thời gian ngắn. Tôi gọi Kashi đến và dặn em không được rời khỏi trường trong suốt thời gian tôi vắng mặt. Tôi có dự cảm rằng nếu em được nằm trong sự che chở của tôi, rất có thể em sẽ vượt qua được số phận không may sắp tới.

Nhưng ngay sau khi tôi rời khỏi Ranchi, cha của Kashi đến trường tìm em và thuyết phục em về thăm mẹ ở Calcutta. Kashi đã nhớ lời dặn của tôi và không muốn đi, nhưng người cha sau đó đã dùng mọi cách cứng rắn để buộc em phải vâng lời.

Khi trở về Ranchi và nghe nói Kashi đã theo cha về thăm mẹ ở Calcutta, tôi lập tức đáp xe lửa đi Calcutta và đến tìm em tại nhà. Dự cảm của tôi đã hoàn toàn chính xác. Cậu bé mắc bệnh thời khí ngay trong ngày thứ hai khi trở về nhà và đã không qua khỏi được.

Cái chết của Kashi đã ám ảnh tôi trong suốt một thời gian dài. Tôi có cảm giác em và tôi có những mối quan hệ lâu xa nào đó mà không sao giải thích được. Dự cảm chính xác về cái chết của em và nỗ lực ngăn cản không thành công, cùng với lời đề nghị cuối cùng của em trước lúc chết đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều.

Về sau, cũng bằng vào sự dự cảm của mình, quả thật tôi đã gặp lại được Kashi trong một căn phố nhỏ ở Calcutta. Cậu bé tái sinh này thật trùng hợp là cũng được cha mẹ đặt cho tên gọi là Kashi và có khuôn mặt không khác biệt gì lắm so với Kashi trước kia. Khi gặp tôi lần đầu, em đã quấn lấy tôi một cách lưu luyến lạ kỳ. Và cha mẹ em đã đồng ý cho phép em rời khỏi gia đình để đi theo học tập dưới sự dẫn dắt của tôi.

Cậu bé Kashi là một trong những trường hợp rất hiếm có và là một kỷ niệm đẹp của tôi trong những ngày đầu tiên ở Thiếu Sinh Học Đường.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14306)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14566)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11844)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14363)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13278)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14647)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12648)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25261)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27893)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26366)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17235)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16528)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15918)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22143)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17137)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24914)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21977)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19071)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16174)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21727)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16785)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14669)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16708)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25029)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18780)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14378)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16617)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18015)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12928)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14948)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12713)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13892)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14607)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28038)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27205)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14349)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20970)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24189)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28693)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14737)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13293)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16461)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27254)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12021)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21502)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12379)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant