Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II.

10 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7757)
II.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG BỐN: BIỆT THỰ HOA HỒNG

II.

Bây giờ tôi xin kể theo thứ tự thời gian một câu chuyện du hành lý thú, độc đáo. Những sự việc diễn biến ở đây đã được bà Blavatsky khai triển thêm một cách vô cùng phong phú trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”.

Chuyện này vẫn in sâu trong ký ức tôi như một kỷ niệm đáng kểthích thú nhất trong những mối liên hệ của tôi với bà Blavatsky. Ngày 4 tháng 4 năm 1879, bạn Mulji và tôi rời khỏi Bombay bằng xe lửa trong một chuyến du hành đến những hang động Karli. Cùng đi có một em trai giúp việc là Babula.

Đến ga Narel, chúng tôi xuống xe và dùng kiệu đi lên đồi đến Matheran, là Trung tâm bồi dưỡng của Sở Y tế thành phố Bombay. Tôi được cho biết rằng chúng tôi đến động Karli do lời mời của một vị chân sư mà tôi đã có liên hệ mật thiết ở Mỹ trong thời gian soạn bộ sách “Vén màn Isis”, và những đồ vật thực cần thiết cho sự tiện nghi của chúng tôi khi đi đường đã được ngài ra lệnh cung ứng đầy đủ. Bởi vậy, tôi không ngạc nhiên chút nào khi gặp tại ga Narel một người Ấn Độ ăn vận ra dáng trung lưu. Người này tiến về phía chúng tôi và vái chào rồi đưa ra một thông điệp bằng thổ ngữ Marathi. Mulji thông dịch lại cho chúng tôi hiểu đó là những lời chào mừng của vị chủ nhân, và đề nghị chúng tôi tùy ý chọn cách đi kiệu hay đi ngựa để lên núi, vì cả hai loại phương tiện này đều sẵn sàng.

Bà Blavatsky và tôi chọn đi kiệu, còn Mulji và Babula chọn đi ngựa. Thế rồi, chúng tôi lên đường trong đêm trăng sáng rỡ như ban ngày, mỗi chiếc kiệu có mười hai người phu khiêng vóc dáng vạm vỡ, mạnh khỏe, nước da sậm, dường như là thổ dân Thakur. Họ vừa đi lên dốc với những bước chân vững chắc, vừa hát theo một điệu nhạc bình dân nghe êm tai để giữ nhịp bước cho nhanh.

Đó là một đêm của vùng nhiệt đới. Cuộc hành trình của chúng tôi đầy những nét thi vị với một nền trời đầy sao chói sáng trước khi trăng lên, với tiếng côn trùng vang vang khắp nơi trong rừng già, với những loài chim ăn đêm gọi đáp lẫn nhau, những loài dơi lớn bay lượn thấp thoáng nhưng âm thầm không một tiếng động, tiếng lá dừa xào xạc trước gió cùng hương thơm của hoa rừng tỏa ra một mùi vị ấm áp, cay nồng, với tiếng hát lạ tai của những người phu khiêng kiệu để giữ nhịp đều với những bước chân đi nhanh thoăn thoắt.

Sáng hôm sau, chúng tôi lên xe lửa đi Khandalla, một thị trấn có khí hậu mát mẻ thuộc vùng núi. Tại đây, người phục vụ của chúng tôi ở Narel lại tiếp đón chúng tôi với một chiếc xe bò rộng rãi để đưa chúng tôi đến lữ quán của Chính phủ. Tại đây, chúng tôi nghỉ ngơi suốt một ngày và đêm hôm sau.

Chiều hôm chúng tôi đến, bạn Mulji dạo chơi đến ga xe lửa để nói chuyện với người xếp ga vốn là một người quen cũ, và gặp một việc lạ lùng làm anh ta rất ngạc nhiên.

Một chuyến xe lửa đến từ Bombay và ngừng lại bến ga, khi đó anh ta nghe có người gọi tên mình rất lớn từ trong xe. Nhìn từ toa xe này đến toa xe khác, anh thấy một người Ấn Độ đang vẫy tay gọi, anh liền bước đến gần cửa sổ của toa xe ấy. Thì ra người lạ mặt là nhân vật kỳ bí mà bà Blavatsky đã đến viếng thăm tại ngôi nhà bí mật! Người ấy trao cho Mulji một bó hoa tươi, dường như cùng một loại hoa hồng mà anh đã thấy trong vườn hoa của biệt thự trên bờ biển, và là thứ hoa đẹp nhất mà anh đã từng được biết. Người lạ mặt nói trong khi đoàn xe bắt đầu chuyển bánh: “Anh hãy trao bó hoa này lại cho Đại tá Olcott và nói là của tôi gửi tặng.”

Thế rồi Mulji trao bó hoa cho tôi và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Một giờ sau đó, tôi nói với bà Blavatsky rằng tôi muốn gửi lời cảm ơn vị chân sư về hảo ý của ngài đối với chúng tôi, và nếu bà có thể trao thư của tôi đến tay ngài thì tôi sẽ viết. Bà bằng lòng.

Thế là tôi viết một thông điệp ngắn rồi đưa cho bà. Bà đưa cho Mulji và bảo anh ta hãy đi thẳng theo con đường trước mặt và giao bức thư ấy. Mulji hỏi: “Nhưng tôi phải trao thư cho ai và ở đâu? Vì tôi không thấy có tên và địa chỉ người nhận ở ngoài bao thư.” Bà nói: “Không hề gì, anh hãy cầm lấy, rồi anh sẽ biết phải giao cho ai.”

Mulji làm theo lời dặn và thẳng tiến trên đường, nhưng sau đó mười phút, anh ta chạy trở về không kịp thở và lộ vẻ rất ngạc nhiên. “Thư đi rồi”, anh ta nói qua hơi thở đứt đoạn. Tôi hỏi: “Sao? Anh nói gì?” Anh ta lắp bắp: “Thư... lá thư... người ấy lấy đi rồi...” Tôi gặn hỏi: “Ai lấy thư ấy? Người ấy là ai?” Anhta nói: “Thưa Đại tá, tôi không biết, nếu đó không phải là ma quỉ hiện hình. Người ấy có thể từ dưới lòng đất chui lên, tôi có cảm tưởng như vậy. Tôi đang từ từ tiến bước, nhìn bên mặt, bên trái, và không biết phải làm gì để thi hành ý muốn của bà Blavatsky. Chung quanh tôi không có một bóng cây hay bụi rậm để có thể ẩn núp, mà chỉ có con đường bụi bặm và trắng xóa. Thình lình xuất hiện ngay trước mặt tôi một người chỉ cách đó có vài thước, cơ hồ như từ dưới đất chui lên và tiến về phía tôi. Đó là người ở ngôi biệt thự có hoa hồng, người đã đưa cho tôi bó hoa để tặng ông ở ga Khandalla, mà tôi đã nhìn thấy trên chuyến xe lửa đi Poona!”

Tôi phản đối: “Vô lý, anh đã mơ hoảng rồi đấy!”

“Không đâu, tôi vẫn tỉnh táo như thường. Người ấy nói: ‘Anh định đưa thư cho tôi phải không, lá thư anh đang cầm nơi tay?’ Tôi ngạc nhiên và nói: ‘Thưa ngài, tôi cũng không biết, vì thư không có địa chỉ.’ Ông ta nói: ‘Thư ấy của tôi, anh đưa đây.’ Rồi ông ấy lấy thư trên tay tôi và nói: ‘Bây giờ anh hãy về đi.’ Tôi quay lưng đi vừa độ một lát và quay lại nhìn xem thì ông ta đã biến mất: con đường trống trơn! Tôi sợ quá, quay lại chạy về, nhưng vừa chạy được chừng năm mươi thước thì nghe một giọng nói bên tai tôi: ‘Đừng có điên lên như thế, hãy bình tĩnh một chút, mọi việc đều tốt lành.’ Điều này lại càng làm cho tôi sợ hơn nữa, vì chung quanh tôi không có một người nào. Tôi chạy một hơi không nghỉ về đến đây.”

Đó là câu chuyện tường thuật của Mulji và tôi lặp lại trung thực những lời anh ta đã nói với tôi. Nếu có thể tin ở bề ngoài, thì chắc chắn anh ta đã nói sự thật, vì cơn sợ hãixúc động của anh thật quá rõ rệt, không thể nói đó là sự giả vờ với một người rất vụng về như anh ta. Hơn nữa, có một nội dung yêu cầu trong bức thông điệp của tôi đã được chân sư trả lời trong một bức thư của ngài mà sau đó tôi đã nhận được tại lữ quán ở Bhurtpore, tỉnh Rajputana, cách chỗ Mulji gặp người lạ mặt trên một ngàn dặm đường. Và đó là một sự kiện đáng kể.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14305)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14565)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11842)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14362)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13275)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14644)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12647)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25252)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27888)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26365)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17233)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16526)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15918)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22142)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17133)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24910)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21970)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19069)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16173)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21725)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16785)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14668)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16706)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25027)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18779)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21199)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14779)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14376)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16616)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18012)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12927)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14947)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12712)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13889)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14605)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28034)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27199)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14348)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20967)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14673)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24185)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28688)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14736)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13292)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16458)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27245)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12020)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16078)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21498)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12378)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant