Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

I.

10 Tháng Ba 201100:00(Xem: 8020)
I.

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG NĂM: VIẾNG ĐỘNG KARLI

I.

Đó là một đêm trăng sáng. Chúng tôi ba người cùng ngồi thưởng trăng trên sân cỏ trước nhà cho đến khuya, và bàn kế hoạch du ngoạn hang động Karli vào ngày hôm sau.

Tối hôm đó, bà Blavatsky ngồi nhập định trong một lúc, và sau đó khi xả thiền bà nói với tôi rằng đúng năm giờ chiều mai, sẽ có một vị tăng lữ Bà-la-môn đến gặp chúng tôi trong hang.

Bốn giờ sáng hôm sau, Baburao, người thừa sai của chân sư, rón rén bước vào phòng ngủ của tôi và Mulji, sẽ đánh thức tôi dậy, nhét vào tay tôi một cái hộp sơn mài nhỏ, hình tròn, đựng một miếng trầu có têm vôi và gia vị gói ở trong, như người ta thường gói sẵn cho gọn để mời khách, và nói nhỏ vào tai tôi thánh danh của vị chân sư bảo trợ chúng tôi trong cuộc đi chơi này. Ý nghĩa món quà này là: trong tổ chức Huyền môn của chúng tôi, đó là dấu hiệu thâu nhận đệ tử mới. Chúng tôi thức dậy, đi tắm, dùng cà phê sáng xong, đúng năm giờ lên xe bò đi Karli và đến nơi vào lúc mười giờ.

Vào giờ này, mặt trời đã lên cao, chúng tôi phải đi lên dốc một cách vất vả, khó nhọc trên con đường mòn từ dưới chân đồi dẫn lên các hang động trên núi. Bà Blavatsky có vẻ mệt lử và hơi thở hổn hển như sắp dứt, đến nỗi vài người phu phải đem lại một chiếc ghế bành và kiệu bà đi trên đoạn đường dốc cuối cùng.

Tôi không cần phải miêu tả ở đây ngôi đền vĩ đại khoét trong hang núi và những xà lim nhỏ vuông vức đục trong vách đá dùng làm chỗ ngủ của các tu sĩ khổ hạnh thời xưa. Toàn bộ kiến trúc gây cho du khách một cảm giác bàng hoàng kinh ngạc về tính cách hùng vĩ của công trình mỹ thuật độc đáo vô song này.

Mọi cuốn du lịch chỉ nam đều có mô tả hang động Karli với đầy đủ chi tiết. Mệt mỏi sau cuộc leo núi dưới ánh mặt trời nóng bức, chúng tôi bước vào trong hang lớn, trải nệm và cắm trại luôn trên nền đá. Kế đó chúng tôi ăn trưa và đàm đạo với nhau về vấn đề thịnh vượng và suy vong của nền minh triết cổ truyền (Brahma Vidya) của Ấn Độ, và những triển vọng phục sinh của nó trong tương lai.

Cuộc đàm thoại về những vấn đề cao siêu đó làm tiêu hao thời gian cho đến khi tôi nhìn đồng hồ thì thấy chỉ còn có sáu phút nữa là đúng năm giờ chiều. Thế là bạn Mulji và tôi để bà Blavatsky ở lại đó rồi cùng đi ra chòi canh ở ngoài cửa hang để ngồi đợi. Không có một tăng lữ khổ hạnh nào xuất hiện, nhưng sau độ mười phút thì thấy có một người tu sĩ đẩy tới trước một con bò cái có tật với một cái chân thứ năm ngắn ngủi mọc ra từ cái gù trên lưng. Có một người nô bộc đi theo ông ta .

Người tu sĩ có một gương mặt dịu dàng, khôi ngô, dễ mến. Ông ta có một đầu tóc đen dợn sóng và xõa xuống tận vai. Một bộ râu rậm chẻ hai ở dưới cằm theo kiểu dân Rajput, đuôi râu vắt lên hai bên mép tai và xoắn lại với tóc trên đầu. Ông mặc bộ áo vàng của người tu sĩ xuất gia, trên vầng trán rộng biểu lộ sự thông minh có bôi tro xám biểu hiệu chi phái thờ thần Shiva.

Chúng tôi để ý dò xét xem ông ta có nhận ra chúng tôi không, nhưng thấy là không. Sau cùng chúng tôi mới lên tiếng để bắt chuyện với ông ta. Ông ta nói rằng ngày hôm qua trong khi ông đang trên lộ trình hành hương ở Hardwar thì sư phụ ông dạy rằng hãy đến đây ngày hôm nay, lúc năm giờ chiều, vì có những người mà ông cần gặp gỡ. Ngoài ra, ông không được dặn dò gì thêm.

Nếu chúng tôi trông đợi ông ta, thì chúng tôi hẳn là những người mà sư phụ ông ta muốn nói đến, nhưng ông ta lại không mang đến một lời nhắn nào cho chúng tôi, hoặc ít nhất chúng tôi cũng chưa biết được điều đó.

Sư phụ ông ta không đích thân nói chuyện với ông, mà ông nghe được lời dạy của ngài qua một giọng nói dường như thì thầm bên tai. Điều này chúng tôi biết được, sau khi đã gặn hỏi ông ta nhiều câu hỏi quanh co, và sau một lúc im lặng, ông ta có vẻ như đang lắng nghe giọng nói của một người nào đó mà không ai trong chúng tôi nhìn thấy. Đó cũng chính là cách ông ta tiếp nhận những lời dạy của sư phụ trong khi đi đường.

Thấy rằng không còn khai thác thêm được điều gì nữa từ ông ta, chúng tôi tạm biệt và trở lại với bà Blavatsky. Chúng tôi quyết định ngủ đêm trên núi, và sau khi thông báo quyết định ấy cho Baburao, anh ta và Mulji liền đi tìm một nơi cư trú thích hợp. Khi họ trở lại, chúng tôi cùng di chuyển hành lý đến một hang nhỏ dùng làm phòng ngủ đục trong vách đá, ở cách đó không xa.

Những nhà điêu khắc thời cổ đã kiến tạo ở cổng vào hang động này hai cây cột đá chạm trổ tinh vi, và bên trong động là mười căn phòng nhỏ, với những hành lang đưa đến một phòng vuông vức rộng lớn dùng làm đại sảnh trung tâm hay hội trường. Bên trái cổng vào là một bồn chứa nước đục vào vách đá để tiếp nhận một thứ nước suối rất trong và mát lạnh.

Bà Blavatsky cho chúng tôi biết rằng từ một căn phòng nhỏ trong hang có một cửa bí mật thông với những hang động khác ở trung tâm quả núi. Tại đây có các bậc siêu nhân đang ẩn trú mà người thế gian không hề biết được mảy may tung tích. Bà nói rằng, nếu có thể tìm thấy một bộ phận nào đó trên vách đá và đẩy vào đó theo đúng phương pháp thì sẽ có thể lọt vào bên trong cửa động bí mật. Đó là một sự tiết lộ rất hấp dẫn trong hoàn cảnh hiện tại!

Tôi đã thăm dò, tìm kiếm rất lâu và trong một hang nhỏ khác cách đó không xa, tôi đã thử đặt tay vào một chỗ nọ và sắp sửa đẩy mạnh vào thì bà Blavatsky gọi giật tôi lại một cách hối hả. Trong bức thư của chân sư mà tôi nhận được ở Bhurtpore sau đó, ngài cho tôi biết rằng lúc ấy tôi đã thật sự đặt tay vào đúng chỗ và đã có thể đột nhập quá sớm vào nơi ẩn trú của ngài nếu tôi không bị gọi giật trở lại.

Mulji và Babula đã cùng với Baburao đi xuống chợ trong làng để mua vật thực, chỉ còn bà Blavatsky và tôi ở lại. Chúng tôi ngồi trước cổng hút thuốc và nói chuyện. Một lát sau, bà bảo tôi hãy ngồi yên một chỗ trong vài phút và đừng nhìn quanh cho đến khi bà lên tiếng. Kế đó, bà đi vào động, còn tôi vừa hút thuốc vừa ngắm cảnh vật rừng núi mênh mông trải rộng dưới chân đồi.

Thình lình, từ phía trong hang vọng ra một tiếng động lớn giống như tiếng đóng sầm của một cánh cửa rất nặng, và một chuỗi cười dài ngạo nghễ nghe vang tai. Tự nhiên là tôi day đầu lại, nhưng bà Blavatsky đã biến mất. Bà không có mặt trong bất cứ gian phòng nhỏ nào mà tôi đã xem xét tỉ mỉ từng chi tiết. Tôi cũng quan sát cẩn thận những mặt đá trên tường, nhưng không thấy một chỗ rạn nứt nào hay một dấu hiệu gì tỏ rằng có một cánh cửa bí mật.

Tôi đã từng trải qua nhiều kinh nghiệm huyền linh trong một thời gian lâu dài với bà Blavatsky nên không thắc mắc nhiều về điều bí hiểm này, và trở lại ngồi chỗ cũ, châm lửa hút thuốc, thản nhiên chờ đợi mọi diễn biến có thể xảy ra.

Nửa giờ đã trôi qua kể từ lúc bà biến mất dạng, bỗng tôi nghe có tiếng chân người ngay sau lưng và giọng nói của bà Blavatsky nói chuyện với tôi, một giọng nói rất tự nhiên dường như không có gì đã xảy ra một cách khác thường. Tôi liền hỏi xem nãy giờ bà đi đâu. Bà đáp rằng vì bà có đạo sự cần bàn tính với chân sư X. nên bà đã đến viếng ngài tại nơi trú ẩn bí mật của ngài. Có điều lạ là bà cầm nơi tay một ngọn đao đã gỉ sét, kiểu cổ xưa trông rất kỳ dị. Bà nói là đã lượm được trong một hành lang bí mậtmang theo tới đây. Bà không chịu để cho tôi giữ cây đao ấy, mà dùng hết sức quăng nó ra xa. Tôi nhìn thấy nó rơi xuống một bụi rậm ở tận dưới chân đồi.

Tôi không giải thích những sự việc đã xảy ra, để cho độc giả tự tìm hiểu tùy khả năng của mỗi người. Tuy nhiên, để rào đón trước sự thiên lệch của những người có ít nhiều thành kiến, tôi có thể nói rằng, ngoài chuyện cây đao gỉ sét, tất cả đều có thể giải thích bằng giả thuyết thôi miên. Tiếng động của cánh cửa đá đóng sầm lại và giọng cười vang dội kéo dài, sự tàng hình và thình lình xuất hiện trở lại của bà Blavatsky, tất cả đều có thể giải thích như những ảo giác do bà Blavatsky dùng thuật thôi miên tác động trên giác quan của tôi. Bà có thể đã đi qua cổng hang ngay bên cạnh tôi để đến một nơi nào đó, và trở lại ngay trước mắt tôi mà tôi không nhìn thấy. Đó là một cách giải thích, tuy rất bấp bênh mơ hồ, của người môn đệ sơ cơ như tôi đối với một người đã lão luyện tinh thông về khoa phương thuật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34367)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16875)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22977)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13056)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21973)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22193)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14869)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23590)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24125)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23649)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17150)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19365)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27080)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14428)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13851)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22697)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14756)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17365)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12684)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13874)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10415)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14711)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17202)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12552)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12720)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10376)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28720)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10712)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11137)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16882)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15785)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13346)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12562)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11371)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13035)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19316)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12253)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28626)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10055)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21532)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12796)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17827)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26252)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11713)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10855)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22764)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12049)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10610)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11421)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11537)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant