Ngày Xuân Đọc Luật
![]() |
Cố HT Thích Thiện Siêu |
Mở đầu Tán Duyên Khởi của Luật Tứ Phần:
"Cúi đầu lễ Chư Phật
Tôn Pháp, Tăng tỳ-kheo
Nay diễn Pháp tì-ni
Để chánh pháp trường tồn."
(Luật Tứ Phần quyển 1, HT Thích Đổng Minh, Tr. 01, 2006)
Hình ảnh này. Âm thanh này, cứ mỗi nửa tháng học Tăng của Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang lại được nghe một lần. Ôn Từ Đàm tụng, Ôn Đổng Minh tụng, mà âm thanh đó, đi sâu vào lòng người. Xông ướp vào lòng người, cứ thế qua mấy mươi năm vẫn còn nhớ. Dáng dấp của Ôn Từ Đàm hiền từ, chậm rãi. Dáng dấp của Ôn Đổng Minh đường bệ, oai nghiêm. Nghe lời quí Ôn tụng mà thấm thía làm sao những lời Phật dạy: "Các con hãy lấy Giới luật làm Thầy." Hay "Giới luật còn, Phật pháp còn".
Bây giờ đọc lại Duyên Khởi - Luật Tứ Phần, chúng ta thấy hình ảnh một Thánh đệ tử cúi đầu đảnh lễ đức Phật. Đảnh lễ Giáo pháp. Đảnh lễ chúng Tăng. Trùng tuyên lại Giới luật để cho Chánh pháp được trường tồn. Thì ra Giới luật là mạng mạch của Tăng già. Là tuổi thọ của Phật pháp. Chúng ta nghe: "Tì ni tạng trụ Phật pháp diệc trụ". Ngày nào Giới luật còn được gìn giữ nghiêm minh thì ngày đó Phật pháp còn hiện hữu với đời một cách vững mạnh - Chánh pháp trường tồn. Hay "Tì ni tạng giả, Phật pháp kỷ cương Tăng già mạng mạch giả." Giới luật là kỷ cương của Phật pháp, là mạng sống của Tăng già. Giới là như thế. Luật là như thế. Như thế, có nghĩa là nguồn sống tự nhiên. Sức sống tự nhiên trên thân thể của Tăng già, trên tinh thần của Phật pháp. Thân thể Tăng già không được trang bị bằng Giới luật là thân thể Tăng già chết, không còn ý nghĩa của Tăng. Tinh thần Phật pháp không có Giới luật thì chẳng có thể gọi là tinh thần Phật pháp như lời Phật dạy.
Do vậy, dù bất cứ thế hệ Tăng nào, thời đức Phật còn tại thế hay cho đến hôm nay, Giới luật vẫn giữ một vị thế tối tôn, trọng yếu. Chúng ta nghe phần Tự Ngôn, Luật Tứ Phần quyển 1, Hòa Thượng Thích Nguyên Chứng viết: "Hòa Thượng (chỉ Ôn Đổng Minh, lời chú của người viết) là một số rất ít trong các Tỳ kheo trì luật của Tăng già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, Tăng thể được chấn chỉnh và khôi phục. Thế hệ thứ nhất trong phả hệ truyền thừa Luật tạng của Tăng già Việt Nam. Thời trùng hưng hiện đại bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng Tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc nhưng khó hình dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau. Các Ngài xứng đáng là bậc long tượng trong chốn tòng lâm, mà đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết, mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham phương, hoằng truyền Chánh pháp."
Thế hệ của cha ông, Thầy Tổ có một đời sống tu hành, phạm hạnh, tịnh như băng tuyết, chính đó là đời sống hướng thượng, đời sống của những bậc Thánh xuất trần, ly dục tịch tịnh. Đời sống ấy là nhân tố, yếu tính làm hưng long Tam Bảo, Phật pháp hoằng viễn.
Từ cuộc sống tịnh như băng tuyết, vững chắc như lõi cây trong chốn rừng Thiền đó là hình dung đời sống của các thế hệ kế thừa, hàng hậu học có tìm ra được những bậc long tượng, kỳ vĩ để chống đỡ ngôi nhà Phật pháp. Bởi vì, đời sống của hàng Tăng già cách Phật lâu xa, bị mỏi mòn hương vị giải thoát, phai nhòa Pháp lạc, bị thế gian lôi cuốn, hâm hở vật dục, lợi danh mà quên đi con đường cao thượng của sự tu tập, lý tưởng của sự giải thoát, từ đó vong thân trong nếp sống đạo hạnh.
Đứng trước mối hiểm họa, tàn phá ngôi nhà tâm linh của những vật chất, danh tướng thế gian, Hòa Thượng cho chúng ta thấy: "Trước sự tàn phá của các giá trị đạo đức truyền thống càng lúc càng trầm trọng diễn ra khiến các cộng đồng xã hội đang mất dần tính tự chủ, dễ bị tha hóa theo những giá trị vật chất; những tín điều đạo đức tôn giáo mới càng lúc càng trở thành tiêu chuẩn cho văn minh tiến bộ theo hướng vật dục và nuôi dưỡng tinh thần cuồng tín và kỳ thị. Sự phá sản tinh thần không chỉ xảy ra trong một phạm vi xã hội, mà nó lan dần đến cả trong sinh hoạt Thiền Môn. Thanh quy của Thiền môn chỉ còn là một lớp vỏ, mà lại là lớp vỏ rách nát không đủ che đậy những dấu hiệu thoái hóa. Tăng già đang trên chiều hướng tục hóa có nguy cơ trở thành một cộng đồng ô hợp tồn tại chỉ vì quyền lợi vật chất thế gian. Trên những lối đi đầy gai gốc của rừng Thiền bấy giờ, vẫn luôn luôn ẩn hiện những dấu chân long tượng dấn bước tìm lại lối mòn cổ đạo, đồng thời thuận hướng với trào lưu lịch sử của đất nước và nhân loại. Đó là những bước đi tái khai phá, dò dẫn một cách thận trọng." (Luật Tứ Phần, quyển 1, Tự Ngôn, Tr viii - Thích Nguyên Chứng).
Từ những trào lưu phóng thể của thời đại có nguy cơ tác động làm di hại đời sống Tăng già. Chúng ta bình tâm đọc lại những lời Chư Phật dạy trong Giới luật để thấy lòng từ bi của Chư Phật đối với chúng ta. Chư Phật đã ân cần giảng dạy, chỉ bày cách hành xử với mọi người cho được tốt đẹp. Cách xây dựng đời sống thanh cao cho tự thân. Cách giữ gìn của hai đời sống tự thân và tha nhân được hoàn mỹ. Từ đó mà hướng thân lập mệnh trên con đường tu chứng, cứu mình, độ người qua biển trầm luân.
Những lời giảng dạy của bảy Đức Phật, từ thời đức Phật Tỳ Bà Thi cho đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong giới kinh giống như tiêu chỉ nguyệt - ngón tay chỉ mặt trăng, nương nơi đó, phương tiện nơi đó mà được rốt ráo, cứu cánh.
1. Đức Phật Tỳ Bà Thi dạy:
"Nhẫn nhục đệ nhất đạo
Phật thuyết vô vi tối
Xuất gia não tha nhơn
Bất danh vi sa môn."
Dịch: Hạnh nhẫn nhục là con đường bậc nhất
Đức Phật dạy: Niết bàn là tối thượng
Người xuất gia mà làm não hại kẻ khác
Thì chẳng xứng gọi là bậc sa môn.
2. Đức Phật Thi Khí dạy:
"Thí như minh nhãn nhơn
Năng tị hiểm ác đạo
Thế hữu thông minh nhơn
Năng viễn ly chư ác"
Dịch: Ví như người có đôi mắt sáng
Hay tránh khỏi các đường xấu hiểm
Bậc thông minh ở trong đời
Hay tránh xa mọi điều xấu ác.
3. Đức Phật Tỳ Xá Phù dạy:
"Bất báng diệc bất tật
Đương phụng hành ư giới
Ẩm thực tri chỉ túc
Thường lạc tại không nhàn
Tâm định lạc tinh tấn
Thị danh chư Phật giáo."
Dịch: Không báng bổ, không có tật đố
Phụng hành trong các học giới
Ăn uống chỉ biết vừa đủ
Thường ưa ở chỗ nhàn tịnh
Tâm an tịnh, vui tinh cần
Ấy lời chư Phật dạy.
4. Đức Phật Câu Lưu Tôn dạy:
"Thí như phong thể hoa
Bất hoại sắc dự hương
Đản thủ kỳ vị khứ
Tỳ kheo nhập tụ nhiên
Bất vị lệ tha sự
Bất quán tác bất tác
Đản tự quán thân hành
Nhược chánh nhược bất chánh."
Dịch: Thí như ong hút mật hoa
Không làm hư sắc và hương
Chỉ hút mật rồi bay đi
Tỳ kheo đi vào xóm làng
Không chống trái việc làm của người
Có làm hay không làm
Chỉ xét hành vi của mình
Là chân chánh hay không chân chánh.
5. Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni dạy:
" Tâm mạc tác phóng dật
Thánh pháp đương cầu học
Như thị xã ái sầu
Tâm định nhập Niết Bàn."
Dịch: Đừng để tâm mình buông lung
Nên siêng năng học Thánh pháp
Như vậy là bỏ ái sầu
Tâm định tĩnh nhập Niết bàn.
6. Đức Phật Ca Diếp dạy:
"Nhất thiết ác bất tác
Đương phụng hành chư thiện
Tự tịnh kỳ chi ý
Thị danh chư Phật giáo"
Dịch: Tất cả các việc ác chớ làm
Nên làm tất cả các việc thiện
Tự lóng sạch tâm ý
Ấy là lời chư Phật dạy.
7. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy:
"Thiện hộ ư khẩu ngôn
Tự tịnh kỳ chi ý
Thân mạc tác chư ác
Thừa tam nghiệp đạo tịnh
Năng đắc Như Lai hành
Thị đại tiên nhân đạo"
Dịch: Khéo gìn giữ lời nói
Tâm ý được thanh tịnh
Thân không làm điều ác
Ba nghiệp được trong sạch
Thực hành tốt như vậy
Là Đạo của bậc Tiên nhân.
Ba ngày Tết đọc lời Phật dạy trong Giới kinh để nhớ lời của Ôn Trí Nghiêm giảng Luật nơi Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang: "Tui chỉ cần quí Thầy thanh tịnh cứ mỗi nửa tháng tới thôi." và lới của Ôn Đổng Minh - người được tán thán "Tịnh Như Băng Tuyết" nói: "Các Thầy học Luật là để thấy mình có tăng tiến trên con đường tu tập hay không, chứ không phải học Luật để có mặc cảm tội lỗi."
Ngoài kia, trước sân chùa, nhánh mai vàng tươi thắm đong đưa với gió xuân như tinh khôi tự thuở nào. Như hằng hữu tự thuở nào. Trên dòng thời gian sinh diệt, có nhánh mai vàng bất sanh bất diệt trên dòng thời gian sinh diệt, thiên lưu.
San Diego, ngày 5 tháng 1 năm 2013
Nguyên Siêu
Ngày Xuân Thắp Hương Tưởng Niệm
Nguyên Siêu
Ôn Già Lam
Trái tim Ôn nồng ấm
Nuôi lớn đàn con
Chọn người làm Phật
Phật đất. Phật đồng
Phật trong tự tánh
Tánh thiện, tánh lành
Tánh như hư không
Ôn dang đôi tay ôm tròn tuổi trẻ.
Tuổi già lụi tàn
Măng mọc đầu non
Ước mộng vuông tròn
Ôn về với Phật.
(PHV Hải Đức - Nha Trang 1973)
Đêm khuya Ôn lạy Phật
Từng lời, từng lời Kinh
Nuôi lớn đàn hậu sinh
Thành Tăng tài cho Đạo
Bước chân Ôn nhẹ dạo
Rạng rỡ ngọn Thiền quynh
Nghiêng mình, khuynh tâm
Một đời đền đáp
Công ơn nuôi dưỡng
Sáng tợ trăng rằm.
(Tu viện Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn - 1980)
Ôn Đổng Minh
Chống gậy Ôn qua triền núi
Đôi dép mòn ba tháng an cư
Con ốc nhỏ nằm bên bờ suối
Dõi nhìn theo dáng điệu hiền từ
Gập gềnh sỏi đá
Con đường chân như
Ôn đi một sớm phù hư
Ôn về cốc núi ẩn cư tu hành.
(Chùa Tỉnh Hội Nha Trang - 1971)
Ôn Trường San
Ôn như ánh trăng rằm
Dung nhan Ôn đẹp lạ
Giám sự một lòng thành
Qua bao nhiêu mùa hạ
Ve sầu kêu rĩ rã
Bát Nhã tát bà ha
Ngày tháng cứ trôi qua
Ôn là quả núi già
Kiên cố và vững chãi
Độ người số hằng sa
Nhất niệm Di Đà
Ôn về với Phật.
(Giám sự PHV Hải Đức Nha Trang - 1970)