Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Mong Ước Điều Lành

06 Tháng Giêng 202119:34(Xem: 3977)
Mong Ước Điều Lành
Mong Ước Điều Lành 

Thích Nguyên Hùng

Tôi Xin Nói Lời Xin Lỗi


Bình anhạnh phúc là niềm mong ước của cả nhân loại, không phân biệt màu da, tôn giáo. Ai ai cũng mong muốn cho bản thân, gia đình, đất nước của mình được bình an, được hạnh phúc. Hạnh phúc cần phải được thiết lập, xây dựngnuôi dưỡng bằng tình yêu, hiểu biết và kinh tế ổn định ; nhưng để có được bình an - thứ giá trị mà có kinh tế chưa chắc đã mua được, người ta cần phảiniềm tin tôn giáo và sự hành trì tu tập.

Đôi khi, ở xã hội này, con người ta đã có tất cả : tình yêu, tài sản, địa vị, quyền lực… nhưng vẫn cảm thấy bất an, vẫn cảm thấy chưa có hạnh phúc. Và đối với nhiều người, khi chứng kiến cuộc sống đầy bất an, bạo lực, khủng bố, bất bình đẳng… ở thế giới này, họ đã hơn một lần mong thoát khỏi nó, mong được lên thiên đường, sống chung với Thượng đế hoặc vãng sinh về cảnh giới hoàn toàn không có khổ đau. Trớ trêu thay, ngay cả chúng sinhThiên giới, tức các vị trời, lại cũng có chung một thao thức, một mong ước… rất con người, như con người : họ cũng ước mong được học hỏi, được hiểu biết về cách thức tạo dựng những phúc lành cao thượng, gieo trồng những hạt giống phước điền nhằm xây dựng một đời sống an lànhhạnh phúc. Chuyện như vầy:

Hôm nọ, khi Đức Thế tôn đang cư ngụ tại thành Xá-vệ, trong tịnh xá Kỳ viên. Bấy giờ, đêm đã vào khuya, có một vị trời, dung sắc thù thắng, hào quang chiếu rạng, sáng toả Kỳ viên, xuống nơi Phật ngự, đảnh lễ Thế tôn, rồi đứng một bên, cung kính bạch Phật, bằng lời kệ rằng :

"Chư thiên và nhân loại
Suy nghĩ điều hạnh phúc
Hằng tầm cầu mong đợi
Một đời sống an lành
Xin ngài vì bi mẫn
Hoan hỷ dạy chúng con
Về phúc lành cao thượng".

Trên đây là những điều được chính Tôn giả A-nan nghe và tường thuật lại thành bản kinh có tên Mahamangala sutta, được kết tập trong tạng kinh Pali, bộ Sutta Nipata, 258-269. Bản kinh này thường được biết đến với tên gọi là Kinh Phước đức, hay Kinh Đại phước đức hoặc kinh Đại hạnh phúc và được các Phật tử các nước Phật giáo Nam truyền như Tích lan, Miến điện, Thái lan… trì tụng thuộc lòng mỗi ngày. Cũng với nội dung này, trong tạng kinh Bắc truyền chữ Hán, nó được kết tập thành phẩm 39, phẩm Cát tường của bộ Kinh Pháp cú, thuộc Đại tạng kinh Đại chính tân tu, số 210 ; và phẩm 42 cùng tên trong bộ Pháp cú Thí dụ, số 211 thuộc ĐTK/ĐCTT.


Mở đầu bản kinh đã cho thấy, không những chỉ loài người, mà cả chư thiên, đều suy nghĩ, mong ước, tìm cầu và mong đợi một đời sống an lành. Hoá ra đời sốngThiên giới không hẳn đã được an lành ! Kinh điển Phật giáo cho chúng ta biết đời sống của các chư thiênphước báosung sướng hơn hẳn loài người, nhưng vẫn còn chịu sự chi phối của sinh tử luân hồi nên chưa hết khổ đau. Mà chưa hết khổ đau thì vẫn còn xu yếu tầm cầu hạnh phúc. Để thoả mãn cho những thao thức của cả chư thiênnhân loại, Đức Thế tôn trình bày 38 phương cách sống đưa tới phúc lành cao thượng mà theo Đức Thế tôn, thực tập theo những điều này mới chính là phước đức lớn nhất hay cát tường, tốt đẹp nhất ! Đọc bản kinh, chúng ta thấy rõ nội dung của nó chứa đựng những giá trị luân lý đạo đức hết sức căn bản của con người, đồng thời đưa ra những chỉ dẫn mang tính định hướng nghề nghiệp rất cơ bản, những phương cách hành xử giữa cá nhân với gia đìnhxã hội rất nhân văn.

Trong phẩm Cát tường kinh Pháp cú, chúng ta có 49 điều cát tường, nhiều hơn kinh Phước đức 10 điều, nhưng tựu trung nó cũng là những chỉ dẫn thiết yếu cho đường đời cũng như tiến bộ tâm linh. Tuy nhiên, có một điều đáng chú ý là, trong khi kinh Phước đức mở đầu bằng lời khuyên :

"Không gần gũi kẻ ác (1)
Thân cận bậc trí hiền (2)
Tôn kính bậc đáng kính (3)",
 
thì phẩm Cát tường kinh Pháp cú đưa ra lời cảnh tỉnh :
"Ai vui tin chính pháp (1)
Là điều kiết tường nhất.
Chẳng phải xin trời, người (2)
Cũng không cúng thần thánh (3)
Để cầu điều may mắn
Là điều kiết tường nhất”.        

Không thể cầu cạnh, van xin người khác cho mình sự bình an, hạnh phúc, mà ngay cả các đấng trời, đất, thánh thần… chúng ta cũng không thể cầu cúng cho họ mà đạt được điều may mắn. Sự thật này cũng đã được nói đến trong Kinh Pháp cú, phẩm Đức Phật:


“Tìm nhiều chỗ quy y
Nơi thần cây, sông, núi
Họa tượng, lập miếu thờ
Cúng tế để cầu phước
Ai quy y như vậy
Không tốt lành, tối thượng
Bởi thần kia đâu đến
Để cứu khổ ai đâu?”[i]

Các vị thần linh không ai đến để cứu khổ cho chúng ta, không ai đến để ban cho chúng ta sự bình an, hạnh phúc. Chúng ta cũng không thể cầu phước bằng cách hoạ tượng, lập miếu thờ thần cây, núi đá, miễu bà, dinh cô… Muốn có được đời sống an lành, hạnh phúc chân thật chúng ta cần phải tu tập, hành trì đúng chánh pháp để chuyển hoá thân tâm thoát khỏi mọi nhiễm ô, phiền não. Sau khi đã xác định không ai ngoài bản thân của mỗi chúng ta chịu trách nhiệm về cuộc đời của chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là hệ quả tất yếu của các hành nghiệp chính mình gây tạo ra, chúng ta bắt đầu thực tập : không gần gũi kẻ ác (1), thân cận bậc trí hiền (2), tôn kính bậc đáng kính (3). Tổ tiên ta vẫn thường dạy ‘gần mực thì đen’, còn chư tổ thì dạy ‘hiệp tập ác giả trưởng ác tri kiến’, tức gần gũi kẻ xấu ác thì chỉ làm cho cái thấy, cái biết ngày một trở nên xấu xa. Cho nên, không những cần phải tránh xa kẻ ác mà còn phải ‘thân cận bậc trí hiền’, điều mà trong kinh thường nói là ‘thân cận thiện sĩ’, tức gần gũi thầy lành bạn tốt để làm cho cái thấy, cái biết ngày càng trở nên rộng lớn, sáng suốt. Sáng suốt để mà biết phân biệt, để ‘tôn kính bậc đáng kính’, chứ không phải gặp đâu cũng lạy, thấy ai cũng cúi đầu cho họ ‘quán đảnh’!


Rồi thì, đối với môi trường sống, cần phải lựa chọn ở trú xứ thích hợp (4). Trú xứ thích hợp là khi ở đó mình có thể được tạo tác nhân lành (5) và được đi trên đường chánh (6). Tạo tác, gieo trồng hạt giống tốt lành, thiện pháp thì gặt được quả báo tốt đẹp, an vui. Đi trên đường chánh là y chỉ trên Bát chánh đạo.

Bát chánh đạo dạy cho một người Phật tử phải sống chánh nghiệpchánh mạng. Cho nên, cần phải có học (7), để có nghề hay (8), và nghề ấy lương thiện (13). Trong xã hội phát triển và mở cửa hội nhập như xã hội chúng ta ngày nay thì người có học và có nghề giỏi có rất nhiều cơ hội thành công, nhưng cần phải biết cung kính (22), khiêm nhường (23), nhẫn nhục (27), thuần hoá (28) và tự kiềm chế (19) để không bị say sưa (20). Không nghiện ngập say sưa trong rượu chè và càng không nên để say sưa, đắm mình trong dục vọng, lợi danh. Muốn vậy, cần phải biết hành trì giới luật (9) để hành vi không lỗi lầm (17) và xả ly tâm niệm ác (18). Thiết lập đời sống tự tại, thong dong (36) nhờ tu tập thiền định (31); gần đời mà chẳng hôi tanh mùi đời (37) nhờ sống phạm hạnh (32); thấy được chân lý của cuộc đời (33) nhờ thường yết kiến sa-môn (29), đúng thời nghe chánh pháp (26) và tuỳ thời đàm luận pháp (30). Đối với mình thì tri túc (24), đối với người thì tri ân (24). Đối với gia đình thì hiếu thuận bậc sanh thành (11), chăm sóc vợ và con (12); đối với người ngoài thì bố thí (14), hành đúng Pháp (15) và giúp ích hàng quyến thuộc (16). Đối với thiện pháp nếu tinh cần thực tập (21) thì khi xúc chạm việc đời tâm không hề lay chuyển (35).

Tựu trung, những điều vừa được chỉ dẫn nếu thực hành không chỗ nào thối thất (38) thì đâu đâu cũng có được an toàn, hạnh phúc. Đó là những chỉ dẫn của Đức Thế tôn về một con đường chắc chắn đưa đến thành tựu sự nghiệp ở đời và cũng thành tựu đời sống tâm linh vững chắc, chứng ngộ quả niết-bàn (34). Đây chính là phương cách tầm cầu phước đức tối thượng nhằm đạt được đời sống hài hoà và tiến bộ cho cá nhân cũng như đưa đến hạnh phúc cho gia đình, hoà bình cho xã hội.

Sau đây chúng ta hãy đọc toàn bộ nội dung bản kinh :

Kinh Hạnh Phúc
Như vầy tôi nghe :
Một thời Thế tôn
Ngự tại Kỳ viên
tịnh xá Cấp cô độc
Gần thành Xá vệ
Khi đêm gần mãn
Có một vị trời
Dung sắc thù thắng
Hào quang chiếu diệu
Sáng tỏa Kỳ viên
Đến nơi Phật ngự
Đảnh lễ Thế tôn
Rồi đứng một bên
Cung kính bạch Phật
Bằng lời kệ rằng :

Chư thiênnhân loại
Suy nghĩ điều hạnh phúc
Hằng tầm cầu mong đợi
Một đời sống an lành
Xin Ngài vì bi mẫn
Hoan hỷ dạy chúng con
Về phúc lành cao thượng.

Thế Tôn tùy lời hỏi
Rồi giảng giải như vầy :

Không gần gũi kẻ ác
Thân cận bậc trí hiền
Tôn kính bậc đáng kính
Là phúc lành cao thượng

Ở trú xứ thích hợp
Công đức trước đã làm
Chân chánh hướng tự tâm
Là phúc lành cao thượng

Đa văn nghề nghiệp giỏi
Khéo huấn luyện học tập
Nói những lời chơn chất
Là phúc lành cao thượng

Hiếu thuận bậc sanh thành
Chăm sóc vợ và con
Sống bằng nghề lương thiện
Là phúc lành cao thượng

Bố thí hành đúng Pháp
Giúp ích hàng quyến thuộc
Hành vi không lỗi lầm
Là phúc lành cao thượng

Xả ly tâm niệm ác
Tự chế không say sưa
Tinh cần trong thiện pháp
Là phúc lành cao thượng

Biết cung kính khiêm nhường
Tri túctri ân
Đúng thời nghe chánh pháp
Là phúc lành cao thượng

Nhẫn nhục tánh thuần hoá
Thường yết kiến sa môn
Tùy thời đàm luận pháp
Là phúc lành cao thượng

Thiền định sống phạm hạnh
Thấy được lý thánh đế
Chứng ngộ quả niết bàn
Là phúc lành cao thượng

Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động không sầu
Tự tạivô nhiễm
Là phúc lành cao thượng

Những sở hành như vậy 
Không chỗ nào thối thất
Khắp nơi được an toàn
Là phúc lành cao thượng.



[i] Kinh Pháp cú Bắc truyền, phẩm Đức Phật, kệ 14-15, Thích Nguyên Hùng dịch.

blank



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 90)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 105)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 130)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 146)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 147)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 149)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 264)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 202)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 272)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 223)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 226)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 202)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 310)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 255)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 327)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 316)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 440)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 309)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 354)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 463)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 424)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 351)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 623)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 345)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 419)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 406)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 422)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 436)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 425)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 362)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 478)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 815)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 809)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 671)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 975)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 500)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 438)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 543)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 561)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 540)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 534)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 712)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 603)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 758)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 732)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 702)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 696)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 660)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 734)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 709)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant