Sanh Xứ Và Trụ Xứ Của Bồ Tát
Nguyễn Thế Đăng
Sau khi đồng tử Thiện Tài dậy từ tam muội thấy tất cả cảnh giới trang nghiêm tự tại trong lầu gác của Đức Di Lặc, ngài nói:
“Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát, thấy được cung điện trang nghiêm do thần lực Bồ tát gia trì, do trợ đạo lưu xuất, do nguyện, trí hiển hiện. Ngươi thấy Bồ tát hạnh, nghe Bồ tát pháp, biết Bồ tát đức, rõ Bồ tát nguyện.
Thiện Tài thưa: Đúng vậy, bạch đại thánh. Đây là lực oai thần của thiện tri thức gia bị khiến cho ghi nhớ. Bạch đại thánh, môn giải thoát này tên là gì?
Bồ tát Di Lặc nói: Thiện nam tử! Môn giải thoát này tên Trí Nhập Tạng Trang Nghiêm Tất Cả Cảnh Giới Ba Đời Chẳng Quên Mất. Thiện nam tử! Trong môn giải thoát này có chẳng thể nói chẳng thể nói hết môn giải thoát, là chỗ chứng đắc của Bồ tát nhất sanh bổ xứ”.
Nhờ thân lực gia trì của Bồ tát Di Lặc hợp cùng trí huệ, đại bi và công đức qua thực hành Bồ tát hạnh của mình, đồng tử Thiện Tài nhập vào Tạng trang nghiêm tất cả cảnh giới ba đời chẳng quên mất. Tạng trang nghiêm tất cả cảnh giới ba đời này chính là Tạng pháp giới lưu giữ tất cả công đức của ba đời. Tất cả Tạng thức lưu giữ tất cả dấu in tạo thành sanh tử đã chuyển thành Trí, đây là chỗ chứng đắc của một Bồ tát nhất sanh bổ xứ, tức là Bồ tát một đời nữa thành Phật. Thức chuyển thành Trí là thức chuyển về bản tánh của chúng là tánh Không, nhờ đó thức được tịnh hóa. Do đó thức có biểu hiện thành tướng nhưng thức thanh tịnh thì tướng thanh tịnh. Thức và tướng thanh tịnh là sự biểu hiện của tánh Không, “sắc tức là Không, Không tức là sắc”. Do đó Kinh nói đây là “môn giải thoát, có chẳng thể nói chẳng thể nói hết môn giải thoát”.
“Thiện Tài hỏi: Sự trang nghiêm này đi về đâu?
Bồ tát Di Lặc đáp: Đi về chỗ từ đó nó đến.
Thiện Tài hỏi: Từ chỗ nào đến?
Bồ tát Di Lặc nói: Từ trong thần lực trí huệ của Bồ tát mà đến, y thần lực trí huệ của Bồ tát mà an trụ; không có chỗ đi cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tích tập, chẳng phải thường hằng, xa lìa tất cả.
Thiện nam tử! Như Long vương làm mưa xuống: chẳng từ tâm ra, chẳng có tích tập mà chẳng phải là chẳng thấy, chỉ do niệm lực của tâm Long vương mà mưa tuôn xuống khắp thiên hạ. Cảnh giới như vậy chẳng thể nghĩ bàn.
Thiện nam tử! Những sự trang nghiêm kia cũng giống như vậy, chẳng trụ ở trong cũng chẳng trụ ở ngoài mà chẳng phải chẳng thấy, chỉ do nơi lực oai thần của Bồ tát và lực thiện căn của ngươi mà thấy sự như vậy.
Này thiện nam tử! Như nhà huyễn thuật làm những sự huyễn: không từ đâu đến, không đi đến đâu. Dù không đến không đi mà do lực huyễn nên thấy được rõ ràng.
Những sự trang nghiêm này cũng giống như vậy, không từ đâu đến cũng không đi đến đâu. Dù không đến không đi nhưng do Bồ tát học tập lực trí huyễn chẳng thể nghĩ bàn và do lực đại nguyện từ xưa mà hiển hiện như vậy”.
Những sự trang nghiêm, mà như ở trước nói “cảnh giới trang nghiêm tự tại”, từ trong thần lực trí huệ Bồ tát mà đến, y nơi thần lực của Bồ tát mà trụ, không có chỗ đi cũng không có chỗ trụ, chẳng phải tập hợp, chẳng phải thường hằng, xa lìa tất cả. Không từ đâu đến, không đi về đâu, những sự trang nghiêm ấy chính là tánh Không thanh tịnh. Những sự trang nghiêm tự tại ấy xuất hiện trên nền tảng tánh Không, y nơi thần lực trí huệ của Bồ tát mà xuất hiện, mà đến và trụ. Thần lực trí huệ ấy là lực trí huyễn chẳng thể nghĩ bàn cùng với lực đại nguyện từ xưa mà hiển hiện, xuất hiện trên nền tảng tánh Không “như huyễn, như mộng, như bóng, như hình, trọn không thành tựu”. Và bởi vì tánh Không vốn là thanh tịnh, giải thoát nên những sự xuất hiện ấy được thấy là trang nghiêm, tự tại. Những sự trang nghiêm ấy là sự biểu lộ của tánh Không thanh tịnh.
Những cảnh giới trang nghiêm tự tại ấy không nương y vào cảnh giới thế gian mà xuất hiện, chúng chỉ nương y vào tâm Bồ tát mà xuất hiện, như mưa là do “niệm lực của tâm Long vương” mà rơi xuống. Tâm Bồ tát là sự thành tựu của hai tích tập trí huệ (trí huyễn) và tích tập công đức (những sự trang nghiêm) mà xuất hiện.
“Đồng tử Thiện Tài thưa: Đại thánh từ xứ nào đến? Bồ tát Di Lặc nói: Chư Bồ tát không đến không đi, như vậy mà đến. Không đi không trụ (dừng ở), như vậy mà đến. Không xứ sở, không bám chấp, không sanh, không trụ, không dời, không động, không khởi, không luyến, không bám, không nghiệp, không báo, không khởi, không diệt, không đoạn, không thường, như vậy mà đến.
Này thiện nam tử! Bồ tát từ nơi đại bi mà đến, vì muốn điều phục các chúng sanh. Từ nơi đại từ mà đến vì muốn cứu hộ các chúng sanh. Từ nơi tịnh giới mà đến vì tùy theo chỗ thích mà thọ sanh. Từ nơi đại nguyện mà đến, vì nguyện lực thuở xưa gia trì. Từ nơi thần thông mà đến vì tùy thích mà hiện ở tất cả xứ. Từ nơi không lay động mà đến, vì thường chẳng rời lìa tất cả Phật. Từ nơi không lấy bỏ mà đến vì thân tâm chẳng bị bắt buộc phải qua lại. Từ nơi phương tiện trí huệ mà đến, vì tùy thuận tất cả chúng sanh. Từ nơi biến hóa thị hiện mà đến vì giống như bóng hình mà hóa hiện”.
Các Bồ tát đã chứng Pháp thân tánh Không nên các vị từ Pháp thân tánh Không mà đến, “không đến, không đi, không trụ mà đến; không xứ, không trụ, không động, không khởi, không luyến, không bám, không nghiệp, không báo…”. Các Bồ tát hoàn toàn tự do trong việc đến và đi, trong việc “tùy chỗ thích mà thọ sanh” là những vị đã ở trong Địa thứ Tám của Pháp thân, Bất động địa hay Vô công dụng đạo.
Khi ấy Bồ tát đã thanh tịnh, đã thoát khỏi nghiệp sanh tử luân hồi, “vì thân tâm chẳng bị bắt buộc phải qua lại”. Khi ấy Bồ tát đến từ nơi đại bi, đại từ, tịnh giới, đại nguyện, thần thông, biến hóa, thị hiện, phương tiện trí huệ mà đến, để giúp đỡ cứu hộ các chúng sanh. Với những đức tính này, Bồ tát từ Pháp thân tánh Không thọ sanh, biến hóa thị hiện thành Báo thân và Hóa thân làm lợi lạc cho các chúng sanh.
Tóm lại Bồ tát từ tánh Không mà đến, đó là trí huệ giải thoát khỏi sanh tử. Đồng thời vì muốn cứu độ chúng sanh đang ở trong sanh tử mà đến, đó là đại từ đại bi. Bồ tát là trí huệ tánh Không và đại bi cứu hộ, đó là sanh xứ và trụ xứ của Bồ tát.
Thọ sanh, tái sanh làm Hóa thân nhưng chẳng “lìa tất cả Phật”, nghĩa là chẳng hề lìa “Pháp thân của tất cả chư Phật”. Chẳng hề lìa Pháp thân tánh Không vốn giải thoát, cho nên Bồ tát làm việc ở thế gian sanh tử mà vẫn giải thoát, vì “từ nơi không động lay mà lại”, sống và làm việc trong “nơi không động lay”, Bất động địa. Đến, ở, làm việc và ra đi “như những hình bóng (trong tấm gương) mà hóa hiện”. Bóng, hình hóa thân chẳng bao giờ lìa tấm gương Pháp thân Đại viên cảnh trí, do đó bóng hình luôn luôn giải thoát như tấm gương Pháp thân.
“Nhưng thiện nam tử! Ngươi hỏi ta từ đâu đến? Thiện nam tử, ta từ sanh xứ là nước Ma La Đề mà đến nơi đây. Thiện nam tử, nước ấy có thôn làng tên là Phòng Xá, có con trưởng giả tên là Cù Ba La, vì để giáo hóa người ấy vào Phật pháp mà ta trụ nơi đó. Lại vì tất cả nhân dân ở xứ đó đáng được hóa độ mà thuyết pháp cho. Lại cũng vì cha mẹ quyến thuộc bà la môn mà thuyết pháp Đại thừa cho được tiến nhập nên trụ nơi đó, rồi từ từ đến đây”.
Lúc này, Đức Di Lặc hóa thân nơi sanh xứ là nước Ba La Đề, làm lợi lạc cho gia đình quyến thuộc và mọi người ở đó. Pháp thân thì không đến không đi không trụ, không có không gian và thời gian, còn thị hiện ra hóa thân thì có hình tướng, có thời gian không gian, có đến có đi có trụ mới làm lợi lạc cụ thể cho chúng sanh được.
“Đồng tử Thiện Tài thưa: Bạch Đại thánh! Những gì là sanh xứ của Bồ tát?
Bồ tát Di Lặc nói: Thiện nam tử! Bồ tát có mười loại sanh xứ (chỗ sanh).
Bồ đề tâm là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà Bồ tát. Thâm tâm là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà thiện tri thức. Các địa là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà các ba la mật. Đại nguyện là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà diệu hạnh. Đại bi là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà bốn nhiếp pháp. Như lý quán sát là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà Bát nhã ba la mật. Đại thừa là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà phương tiện thiện xảo. Giáo hóa chúng sanh là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà chư Phật. Trí huệ phương tiện là sanh xứ của Bồ tát, vì sanh vào nhà Vô sanh pháp nhẫn. Tu hành tất cả pháp là sanh xứ của Bồ tát vì sanh vào nhà tất cả Như Lai ba đời.
Này thiện nam tử! Đại Bồ tát lấy Bát nhã ba la mật làm mẹ, phương tiện thiên xảo làm cha, năm ba la mật làm nhũ mẫu, người nuôi dưỡng, người giúp việc… Thiện tri thức làm thầy dạy, tất cả Bồ đề phần làm bạn, tất cả pháp lành làm quyến thuộc, tất cả Bồ tát làm huynh đệ, Bồ đề tâm làm nhà, như lý tu hành là gia pháp, các địa làm gia xứ, các nhẫn làm gia tộc, đại nguyện làm gia giáo, đầy đủ các hạnh làm thuận gia pháp, khuyên phát Đại thừa tâm làm nối gia nghiệp, nước pháp rưới đầu Bồ tát nhất sanh bổ xứ làm hoàng thái tử, thành tựu Bồ đề là thanh tịnh gia tộc”.
Bồ tát là vị “siêu phàm phu địa, nhập Bồ tát vị, sanh nhà Như Lai, trụ chủng tánh Phật”, tức là làm Phật tử, con Phật. Muốn như thế phải thực hành tất cả pháp Đại thừa.
Ở đoạn này nói nhiều đến chữ “nhà”, “gia”. Muốn vào nhà Phật, ở trong nhà Phật, làm con Phật, phải có đủ phẩm tính của “gia tộc Phật”.
Bồ tát là Phật tử khi vào được các địa trong Mười Địa Pháp thân, gọi là nhập Bồ tát vị, sanh vào nhà Như Lai, tất cả Bồ tát làm huynh đệ. Sau đó “nối gia nghiệp”, cho đến “nước pháp rưới đầu, làm hoàng thái tử, Bồ tát nhất sanh bổ xứ” như Đức Di Lặc.
Tóm lại con đường Bồ tát là “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”.
“Này thiện nam tử! Đại Bồ tát sanh nhà tôn thắng như vậy rồi, vì biết tất cả pháp như bóng hình nên đối với thế gian không còn ghét chê. Vì biết tất cả pháp như biến hóa nên không nhiễm trước các cõi hữu lậu. Vì biết tất cả pháp không có ngã nên giáo hóa chúng sanh không mệt chán. Vì đại từ bi là thể tánh nên nhiếp thọ chúng sanh chẳng biết khổ nhọc. Vì thông đạt sanh tử giống như giấc mộng nên trải qua tất cả kiếp mà không ngại sợ. Vì biết rõ các uẩn đều như huyễn nên thị hiện thọ sanh mà không chán mỏi. Vì biết các giới, xứ là đồng pháp giới nên nơi các cảnh giới không bị hoại diệt. Vì biết tất cả tưởng như dương diệm nên vào trong các nẻo sanh tử mà chẳng sanh điên đảo mê lầm. Vì đạt tất cả pháp đều như huyễn nên vào cảnh giới mà chẳng sanh nhiễm trước. Vì biết Pháp thân nên tất cả phiền não chẳng thể lừa dối. Vì đắc tự tại nên nơi tất cả đường sanh tử đều thông đạt vô ngại”.
Con đường Bồ tát tạo thành bằng hai yếu tố chính: trí huệ và đại bi.
Trí huệ, mà ở đây gọi là trí huyễn, là nhìn thấy sanh tử và chúng sanh trong đó là tánh Không để có thể tự giải thoát cho mình và giải thoát cho người khi đang sống trong sanh tử mà không mệt mỏi, chán ghét, sợ hãi.
Trí huyễn là “biết tất cả các pháp như bóng hình (trong gương tâm), biết chúng như biến hóa (của tâm), thông đạt sanh tử như giấc mộng, biết các uẩn tạo thành mình và chúng sanh đều không có ngã và như huyễn, biết tất cả pháp là đồng pháp giới (nên thể nhập pháp giới của pháp thân)”…
Đại từ bi là thể tánh của Bồ tát, của chúng sanh, và của toàn bộ pháp giới, chứng nhập được như vậy nên không khổ nhọc, vô ngại với sanh tử như mộng như huyễn. Đại từ bi là thể tánh của pháp giới, chúng sanh, nên mình-người không cách hở, cùng một thể tánh, do đó mà không mệt mỏi vì chúng sanh trong sanh tử. Đây là điều Kinh Bồ tát Hư Không Tạng Bổn Nguyện nói là “đồng thể đại bi”.
Với trí huệ và đại bi, Bồ tát được tự tại với sanh tử và với cả Niết bàn không có sanh tử và chúng sanh của bậc Thanh Văn.
“Thiện nam tử! Thân ta sanh khắp tất cả pháp giới, đồng với sắc tướng sai biệt của tất cả chúng sanh, đồng với ngôn âm sai khác của tất cả chúng sanh, đồng với danh hiệu đủ loại của tất cả chúng sanh, đồng với cử chỉ và sở thích của tất cả chúng sanh, tùy thuận thế gian giáo hóa điều phục, thị hiện thọ sanh đồng với tất cả chúng sanh thanh tịnh, đồng với tất cả sự nghiệp chúng sanh phàm phu làm, đồng với tưởng của tất cả chúng sanh, đồng với thệ nguyện của tất cả Bồ tát, mà hiện thân mình đầy khắp pháp giới”.
Đức Di Lặc là Bồ tát nhất sanh bổ xứ, đã chứng hoàn toàn Pháp thân tánh Không. Bởi vì tánh Không là bản tánh của mọi sự, mọi chúng sanh, nên hiện hữu trong và thông suốt qua tất cả mọi sự, mọi chúng sanh, mọi không gian và thời gian. Cho nên, Bồ tát chứng hoàn toàn tánh Không thì “sanh khắp tất cả pháp giới, đồng với sắc tướng sai biệt của tất cả chúng sanh, đồng với tất cả sự nghiệp chúng sanh phàm phu làm”
Như đại dương thì đồng một tánh nước với tất cả mọi làn sóng, nhưng tất cả mọi làn sóng chẳng thể làm ô nhiễm, biến chất đại dương: đại dương luôn luôn vẫn là tánh nước. Như tấm gương (Đại viên cảnh trí, trí như tấm gương lớn tròn sáng) thì đồng với tất cả các bóng gương vì đều cùng một mặt gương, nhưng các bóng dù có biến hóa thế nào cũng không thể làm nhiễm ô, biến chất tấm gương. Các bóng xuất hiện trên tấm gương nhưng chẳng thể dính cứng vào tấm gương, gương mãi mãi trong sáng và sạch hết mọi hình bóng.
Bồ tát là một với tánh Không thì ở khắp trong sanh tử và đồng với tất cả sanh tử nhưng chẳng bao giờ nhiễm ô bởi sanh tử. Chúng sanh có bao nhiêu lời nói, bao nhiêu ý tưởng, bao nhiêu sự nghiệp xấu tốt, bao nhiêu cử chỉ sở thích, Bồ tát đều đồng, nhưng chẳng bao giờ trở thành những cái đó, chẳng bao giờ “là” những cái đó.
Tánh Không vô sanh đồng khởi (co-emerge) với tất cả các cái sanh nhưng mãi mãi vẫn là vô sanh. Đó là Bồ tát hạnh rốt ráo.
“Tùy thuận thế gian, giáo hóa điều phục”, “thị hiện thọ sanh đồng với tất cả chúng sanh thanh tịnh”, “đồng với thệ nguyện của tất cả Bồ tát”; đây là sự “tùy thuận” rốt ráo, “thị hiện” rốt ráo, “thệ nguyện” rốt ráo, vì đồng với tất cả phàm thánh, tất cả sanh tử và Niết bàn.
“Hiện thân mình đầy khắp pháp giới” vì ngài đã là một với Pháp thân tánh Không, tức là một với toàn thể pháp giới.
“Thiện nam tử! Ta vì hóa độ những người thuở xưa cùng ta đồng tu các hạnh mà nay thối thất Bồ đề tâm, cũng để giáo hóa cha mẹ thân thuộc, cũng để giáo hóa các bà la môn khiến họ bỏ tính kiêu mạn chủng tộc để được sanh trong chủng tánh Như Lai, nên sanh vào cõi Diêm Phù Đề nước Ba La Đề, nhà bà la môn.
Này thiện nam tử! Ta trụ trong đại lầu gác này, tùy tâm sở thích của chúng sanh mà dùng nhiều phương tiện giáo hóa điều phục. Thiện nam tử! ta vì tùy thuận tâm chúng sanh, vì thành thục chư thiên đồng hành nơi cung trời Đâu Suất, vì thị hiện phước trí biến hóa trang nghiêm của Bồ tát, vượt khỏi tất cả các trời dục giới khiến họ bỏ lìa các dục lạc, vì cho họ biết hữu vi đều vô thường, vì cho họ biết chư thiên hễ có thịnh tất có suy, vì muốn thì hiện pháp môn đại trí lúc sắp giáng sanh cùng với các Bồ tát nhất sanh bổ xứ với nhau đàm luận, vì muốn nhiếp hóa các người đồng hành, vì muốn giáo hóa những người còn sót lại sau đức Thích Ca Như Lai, để họ được khai ngộ như những hoa sen nở, nên khi mạng chung ta sẽ sanh lên trời Đâu Suất.
Thiện nam tử, khi bổn nguyện ta tròn đủ, thành Nhất thiết trí, chứng Vô thượng Bồ đề, ngươi và Văn Thù Sư Lợi đều được thấy ta”.
Đức Di Lặc nói cho đồng tử Thiện Tài nghe về Bồ tát hạnh của ngài trong kiếp này trước khi sanh lên cõi trời Đâu Suất. Hạnh giáo hóa của ngài không chỉ ở trái đất này mà còn đến cả những chúng sanh cõi trời, và cùng các Bồ tát nhất sanh bổ xứ khác hoằng dương Phật pháp cho đến khi thành Phật. Đây là hạnh chung của các Bồ tát, dù có cao thấp khác nhau, nhưng đều là “tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”.
“Thiện nam tử! Ngươi nên qua đến chỗ Văn Thù Sư Lợi thiện tri thức để hỏi Bồ tát như thế nào học Bồ tát hạnh, như thế nào nhập Phổ Hiền hạnh môn, thế nào thành tựu, thế nào làm rộng lớn, thế nào tùy thuận, thế nào thanh tịnh, thế nào viên mãn? Văn Thù Sư Lợi sẽ vì ngươi mà phân biệt diễn nói”.
Sau đó Bồ tát Di Lặc bảo đồng tử Thiện Tài đến gặp Bồ tát Văn Thù, trước khi đi đến với vị Bồ tát cuối cùng là ngài Phổ Hiền. Bồ tát Văn Thù là người đã dạy cho Thiện Tài hãy phát tâm Bồ đề, hành Bồ tát hạnh, hành hương cầu đạo bắt đầu bằng cách đi về phương Nam để gặp vị thiện tri thức thứ nhất là Tỳ kheo Đức Vân.
- Tag :
- Nguyễn Thế Đăng