Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí HuệĐại Bi Trong Kinh Hoa Nghiêm

05 Tháng Chín 202318:19(Xem: 1338)
Trí Huệ Và Đại Bi Trong Kinh Hoa Nghiêm

Trí HuệĐại Bi  Trong Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

 
1



1/ Trí huệ

Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướng và sở tri chướng, mà không thấy không biết:

Lại nữa, chư Phật tử! Trí huệ Như Lai không chỗ nào chẳng đến. Vì không một chúng sanh nào mà chẳng đầy đủ trí huệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng điên đảo chấp trước nên không chứng được. Nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trítự nhiên trívô ngại trí liền hiện tiền

Ví như có quyển sách lớn bằng đại thiên thế giới biên chép hết tất cả những sự việc trong đại thiên thế giới. Đó là biên chép những sự việc trong núi Đại thiết vi thì lượng bằng núi Đại thiết vi. Biên chép những sự việc trong đại địa thì lượng bằng đại địa, biên chép những sự việc trong trung thiên thế giới thì lượng bằng trung thiên thế giới, biên chép những sự việc trong tiểu thiên thế giới thì lượng bằng tiểu thiên thế giới… Quyển sách lớn ấy tuy lượng bằng đại thiên thế giới, mà hoàn toàn ở trong một vi trần (hạt bụi nhỏ). Như một vi trần, tất cả các vi trầncũng đều như vậy.

Bấy giờ có một người trí huệ sáng suốtthành tựu đầy đủ thiên nhãn thanh tịnh, thấy quyển sách này ở trong hạt bụi không lợi ích gì cho chúng sanh. Bèn nghĩ rằng ta nên dùng sức tinh tấn, phá vỡ hạt bụi đó, đem quyển sách lớn ra, làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Nghĩ xong bèn dùng phương tiện phá vỡ hạt bụi đem quyển sách lớn ra, làm cho các chúng sanh khắp được lợi ích. Như một hạt bụi, tất cả các hạt bụi cũng đều như vậy. 

Cũng vậy, trí huệ Như Lai vô lượngvô ngại có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh, đầy đủ ở trong thân chúng sanh. Nhưng các phàm phu vọng tưởng chấp trước nên chẳng biết, chẳng hay, chẳng được lợi ích

Bấy giờ Như Lai dùng mắt trí huệ thanh tịnh vô ngại xem khắp pháp giới tất cả chúng sanh mà nói rằng: Lạ thay, lạ thay! Tại sao các chúng sanh này vốn có đủ trí huệ Như Lai, mà ngu si mê lầmchẳng biết, chẳng thấy. Ta sẽ dạy họ thánh đạo, khiến họ vĩnh viễn lìa khỏi vọng tưởng chấp trước. Tự ngay trong thân thấy được trí huệ Như Lai rộng lớn, như Phật không khác”.

(Kinh Hoa Nghiêm phẩm Như Lai xuất hiện thứ 37)

Tất cả chúng sanh đều có trí huệ Như Lai vì “trí huệ Như Lai không chỗ nào chẳng đến”, thậm chí trong tất cả các vi trần. Như thế toàn thể pháp giới, tất cả chúng sanhcho đến tất cả các vi trầnđều thấm đẫm, chứa đựng trí huệ Như Lai, cái thấy biết của Như Lai.

“Tất cả các chúng sanh vốn có đủ trí huệ Như Lai rộng lớn, như Phật không khác”, chỉ vì vọng tưởng chấp trước do chính họ tự tạo mà bị che khuất. Tin được lời Phật dạy, “nơi thân mình có đủ đầy đủ trí huệ rộng lớn Như Lai” thì đây là cửa vào trí huệ rộng lớn bao trùm pháp giới, đến độ pháp giới chính là trí huệ Như Lai rộng lớn ấy. “Nếu lìa vọng tưởng” rằng trí huệ Như Lai là riêng của Phật, mình không có phần nào trong đó, không đang tham dự vào trí huệ ấy, thì đây là “vọng tưởng chấp trước nên không chứng được”. Trong khi đó Phật nói “không một chúng sanh nào mà chẳng đầy đủ trí huệ Như Lai”.

Tin được điều đó, “nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trítự nhiên trívô ngại trí liền hiện tiền”. Khi ấy pháp giới hiện tiền trước mặt, và đi vào pháp giới như Thiện Tài đồng tử trong phẩm Nhập pháp giới

Trí huệ Như Lai có sẳn trong mỗi hạt bụi, đó là điều Kinh Hoa Nghiêm xác quyết.

2/ Đại bi

Đại bi là động lực mạnh nhất để một Bồ tát đi lên các địa, cũng tức là nhập pháp giới.

Từ bi và nguyện lực
Sanh hạnh vào Thập địa
Tuần tự tâm viên mãn
Chẳng phải cảnh nghĩ suy.

(Phẩm Thập địa)

Bồ tát Sơ địa muốn tiến lên các địa trên phải lấy đại bi làm đầu:

Bồ tát Hoan Hỷ địa lấy đại bi làm đầu, chí nguyện rộng lớn không có gì cản trở hủy hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn nên thành tựu được lòng tin tăng thượng, nhiều lòng tin thanh tịnhhiểu biết thanh tịnhlòng tin quyết định, phát sanh lòng bi mẫnthành tựu đức đại từ… 

Lại phát đại nguyện: nguyện tất cả cõi chúng sanh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng chẳng không tưởng, sanh từ trứng, sanh từ thai, sanh từ ẩm ướt, sanh từ biến hóa, thuộc vào ba cõi, sáu loài, tất cả chỗ thác sanh, thuộc về danh sắc, những loài như vậy tôi đều giáo hóa cho họ vào Phật pháp, dứt hẳn tất cả loài thế gian mà an trụ đạo Nhất thiết chủng trí, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không ngừng nghỉ”.

(Phẩm Thập địa, thứ 24)

Với đại bi và đại nguyện cứu độ chúng sanh trong tất cả các loài ở khắp pháp giớiBồ tát Sơ địa đi vào pháp giới và thành tựu hạnh Bồ tát ở đó. Đại bi và đại nguyện của Bồ tát bao trùm và thâm nhập pháp giới mà pháp giới là tất cả không gian và tất cả thời gian. Hơn nữa, với kinh Hoa Nghiêmkhông gian ở mức độ nhỏ nhất là vi trần, và thời gian ở mức độ nhỏ nhất là một sát na, một khoảnh khắc, một niệm. Như thế đại bi và đại nguyện của Bồ tát bao trùm và thâm nhập mọi vi trần và mọi khoảnh khắc.

 

Trong phẩm Nhập pháp giới, trước khi gặp Bồ tát Phổ Hiền và hoàn thành Phật đạoThiện Tài đồng tử gặp Bồ tát Di LặcBồ tát Di Lặc dạy và nhắc lại cho Thiện Tài về Bồ đề tâm. Đoạn về Bồ đề tâmnày rất dài, chiếm một số trang rất lớn của phẩm và của bộ kinh.

Bồ đề tâm là Trí Huệ và Đại Bi hợp nhất trong hành động. Thành tựu Bồ đề tâm tuyệt đối tức là tâm Phật, tức là thành Phật.

Trước khi vào lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của Bồ tát Di Lặc, lầu các này tượng trưngcho pháp giới sâu rộngThiện Tài đồng tử tư duy và nói kệ:

Đây là chỗ ở của bậc hay trụ pháp khó biết, pháp rất sâu, pháp không hai, pháp vô tướngpháp không đối trị, pháp vô sở đắcpháp không hý luận. Là chỗ ở của bậc trụ đại từ đại bi…
Bồ tát tu hành huệ vô ngại
Vào các cõi nước không chấp trước
Dùng trí không hai chiếu sáng khắp
Lầu này của bậc Vô ngã ở.
Biết rõ các pháp không y chỉ
Bản tánh tịch diệt đồng hư không
Thường hành như vậy trong cảnh giới
Lầu này của bậc Ly cấu ở.
Thấy khắp chúng sanh chịu các khổ
Phát tâm nhân từ đại trí huệ
Nguyện thường lợi ích các thế gian
Lầu này của bậc Bi mẫn ở…

Con đường Bồ tát hợp nhất trí huệ và đại biTrí huệ là ánh sáng bao trùm toàn bộ pháp giới và đại bi xâm nhập vào các cõi giới và mỗi chúng sanh.

 

3/ Hạnh Bồ tát hợp nhất trí huệ và đại bi

Cũng trong phẩm Nhập pháp giới nói riêng với Thiện Tài đồng tử và toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm nói chung, với tất cả các Bồ tát, các vị luôn luôn đi trong trí huệ của Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và trong Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tátĐại hạnh của Bồ tát Phổ Hiền cũng chính là đại bi thể hiện bằng hành động của ngài. Cũng bởi thế mà Phật Thích Ca được thờ ở giữa, bên trái ngài là Bồ tát Văn Thù, bên phải ngài là Bồ tát Phổ HiềnThành Phật là thành tựu trọn vẹn đại trí và đức hạnh mà Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền đại diện.

Hạnh Bồ tát là sự hợp nhất của trí huệ tánh Không và đại bi biểu lộ qua đại hạnh cứu giúp chúng sanh.

Sau đây là trích dẫn từ hai vị, sống cùng thời với nhau, một là ngài Padmasambhava (755-797) vị đã đưa Phật giáo Ấn Độ vào Tây Tạng và ngài Quy Sơn (771-853), vị lập ra phái Thiền Quy Ngưỡng ở Trung Hoa. Cả hai ngài nói về cái thấy của trí huệ tánh Không kết hợp với hạnh:

Cái thấy (tánh Khôngphải từ chót đỉnh núi đi xuống, trong khi hạnh phải từ chân núi đi lên” (ngài Padmasambhava).

Trong chỗ đất thật (tánh Khôngthì không thọ nhận một mảy bụi, nhưng trong cửa muôn hạnh thì chẳng bỏ một pháp nào” (ngài Quy Sơn). 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 101)
Sống ở đời ai cũng mong muốn gia đạo bình an, sự nghiệp ổn định và phát triển.
(Xem: 147)
Một ngày nọ, Phật thấy một vị tăng khóc bên ngoài lối vào Tịnh xá Jetavana Vihara (Kỳ đà tinh xá).
(Xem: 205)
Trong những ngày vừa qua, câu chuyện về một vị sư mang tên T.M.T lan truyền trên mạng xã hội với hình ảnh một vị đầu trần
(Xem: 210)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 193)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 286)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 314)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 515)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 342)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 346)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 425)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 376)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 361)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 328)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 378)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 382)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 305)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 275)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 311)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 328)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 420)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 486)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 486)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 492)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 468)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 479)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 742)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 700)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 989)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 562)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 792)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 610)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 605)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 483)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 594)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 573)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 761)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 541)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 936)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 676)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 672)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1116)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 771)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 654)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 1034)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 621)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 742)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 721)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 693)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 718)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant