Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trí HuệĐại Bi Trong Kinh Hoa Nghiêm

05 Tháng Chín 202318:19(Xem: 1374)
Trí Huệ Và Đại Bi Trong Kinh Hoa Nghiêm

Trí HuệĐại Bi  Trong Kinh Hoa Nghiêm

Nguyễn Thế Đăng

 
1



1/ Trí huệ

Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướng và sở tri chướng, mà không thấy không biết:

Lại nữa, chư Phật tử! Trí huệ Như Lai không chỗ nào chẳng đến. Vì không một chúng sanh nào mà chẳng đầy đủ trí huệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng điên đảo chấp trước nên không chứng được. Nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trítự nhiên trívô ngại trí liền hiện tiền

Ví như có quyển sách lớn bằng đại thiên thế giới biên chép hết tất cả những sự việc trong đại thiên thế giới. Đó là biên chép những sự việc trong núi Đại thiết vi thì lượng bằng núi Đại thiết vi. Biên chép những sự việc trong đại địa thì lượng bằng đại địa, biên chép những sự việc trong trung thiên thế giới thì lượng bằng trung thiên thế giới, biên chép những sự việc trong tiểu thiên thế giới thì lượng bằng tiểu thiên thế giới… Quyển sách lớn ấy tuy lượng bằng đại thiên thế giới, mà hoàn toàn ở trong một vi trần (hạt bụi nhỏ). Như một vi trần, tất cả các vi trầncũng đều như vậy.

Bấy giờ có một người trí huệ sáng suốtthành tựu đầy đủ thiên nhãn thanh tịnh, thấy quyển sách này ở trong hạt bụi không lợi ích gì cho chúng sanh. Bèn nghĩ rằng ta nên dùng sức tinh tấn, phá vỡ hạt bụi đó, đem quyển sách lớn ra, làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Nghĩ xong bèn dùng phương tiện phá vỡ hạt bụi đem quyển sách lớn ra, làm cho các chúng sanh khắp được lợi ích. Như một hạt bụi, tất cả các hạt bụi cũng đều như vậy. 

Cũng vậy, trí huệ Như Lai vô lượngvô ngại có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh, đầy đủ ở trong thân chúng sanh. Nhưng các phàm phu vọng tưởng chấp trước nên chẳng biết, chẳng hay, chẳng được lợi ích

Bấy giờ Như Lai dùng mắt trí huệ thanh tịnh vô ngại xem khắp pháp giới tất cả chúng sanh mà nói rằng: Lạ thay, lạ thay! Tại sao các chúng sanh này vốn có đủ trí huệ Như Lai, mà ngu si mê lầmchẳng biết, chẳng thấy. Ta sẽ dạy họ thánh đạo, khiến họ vĩnh viễn lìa khỏi vọng tưởng chấp trước. Tự ngay trong thân thấy được trí huệ Như Lai rộng lớn, như Phật không khác”.

(Kinh Hoa Nghiêm phẩm Như Lai xuất hiện thứ 37)

Tất cả chúng sanh đều có trí huệ Như Lai vì “trí huệ Như Lai không chỗ nào chẳng đến”, thậm chí trong tất cả các vi trần. Như thế toàn thể pháp giới, tất cả chúng sanhcho đến tất cả các vi trầnđều thấm đẫm, chứa đựng trí huệ Như Lai, cái thấy biết của Như Lai.

“Tất cả các chúng sanh vốn có đủ trí huệ Như Lai rộng lớn, như Phật không khác”, chỉ vì vọng tưởng chấp trước do chính họ tự tạo mà bị che khuất. Tin được lời Phật dạy, “nơi thân mình có đủ đầy đủ trí huệ rộng lớn Như Lai” thì đây là cửa vào trí huệ rộng lớn bao trùm pháp giới, đến độ pháp giới chính là trí huệ Như Lai rộng lớn ấy. “Nếu lìa vọng tưởng” rằng trí huệ Như Lai là riêng của Phật, mình không có phần nào trong đó, không đang tham dự vào trí huệ ấy, thì đây là “vọng tưởng chấp trước nên không chứng được”. Trong khi đó Phật nói “không một chúng sanh nào mà chẳng đầy đủ trí huệ Như Lai”.

Tin được điều đó, “nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trítự nhiên trívô ngại trí liền hiện tiền”. Khi ấy pháp giới hiện tiền trước mặt, và đi vào pháp giới như Thiện Tài đồng tử trong phẩm Nhập pháp giới

Trí huệ Như Lai có sẳn trong mỗi hạt bụi, đó là điều Kinh Hoa Nghiêm xác quyết.

2/ Đại bi

Đại bi là động lực mạnh nhất để một Bồ tát đi lên các địa, cũng tức là nhập pháp giới.

Từ bi và nguyện lực
Sanh hạnh vào Thập địa
Tuần tự tâm viên mãn
Chẳng phải cảnh nghĩ suy.

(Phẩm Thập địa)

Bồ tát Sơ địa muốn tiến lên các địa trên phải lấy đại bi làm đầu:

Bồ tát Hoan Hỷ địa lấy đại bi làm đầu, chí nguyện rộng lớn không có gì cản trở hủy hoại được. Lại thêm siêng tu tất cả thiện căn nên thành tựu được lòng tin tăng thượng, nhiều lòng tin thanh tịnhhiểu biết thanh tịnhlòng tin quyết định, phát sanh lòng bi mẫnthành tựu đức đại từ… 

Lại phát đại nguyện: nguyện tất cả cõi chúng sanh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng chẳng không tưởng, sanh từ trứng, sanh từ thai, sanh từ ẩm ướt, sanh từ biến hóa, thuộc vào ba cõi, sáu loài, tất cả chỗ thác sanh, thuộc về danh sắc, những loài như vậy tôi đều giáo hóa cho họ vào Phật pháp, dứt hẳn tất cả loài thế gian mà an trụ đạo Nhất thiết chủng trí, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không, suốt tất cả kiếp số vị lai không ngừng nghỉ”.

(Phẩm Thập địa, thứ 24)

Với đại bi và đại nguyện cứu độ chúng sanh trong tất cả các loài ở khắp pháp giớiBồ tát Sơ địa đi vào pháp giới và thành tựu hạnh Bồ tát ở đó. Đại bi và đại nguyện của Bồ tát bao trùm và thâm nhập pháp giới mà pháp giới là tất cả không gian và tất cả thời gian. Hơn nữa, với kinh Hoa Nghiêmkhông gian ở mức độ nhỏ nhất là vi trần, và thời gian ở mức độ nhỏ nhất là một sát na, một khoảnh khắc, một niệm. Như thế đại bi và đại nguyện của Bồ tát bao trùm và thâm nhập mọi vi trần và mọi khoảnh khắc.

 

Trong phẩm Nhập pháp giới, trước khi gặp Bồ tát Phổ Hiền và hoàn thành Phật đạoThiện Tài đồng tử gặp Bồ tát Di LặcBồ tát Di Lặc dạy và nhắc lại cho Thiện Tài về Bồ đề tâm. Đoạn về Bồ đề tâmnày rất dài, chiếm một số trang rất lớn của phẩm và của bộ kinh.

Bồ đề tâm là Trí Huệ và Đại Bi hợp nhất trong hành động. Thành tựu Bồ đề tâm tuyệt đối tức là tâm Phật, tức là thành Phật.

Trước khi vào lầu các Tỳ Lô Giá Na Trang Nghiêm Tạng của Bồ tát Di Lặc, lầu các này tượng trưngcho pháp giới sâu rộngThiện Tài đồng tử tư duy và nói kệ:

Đây là chỗ ở của bậc hay trụ pháp khó biết, pháp rất sâu, pháp không hai, pháp vô tướngpháp không đối trị, pháp vô sở đắcpháp không hý luận. Là chỗ ở của bậc trụ đại từ đại bi…
Bồ tát tu hành huệ vô ngại
Vào các cõi nước không chấp trước
Dùng trí không hai chiếu sáng khắp
Lầu này của bậc Vô ngã ở.
Biết rõ các pháp không y chỉ
Bản tánh tịch diệt đồng hư không
Thường hành như vậy trong cảnh giới
Lầu này của bậc Ly cấu ở.
Thấy khắp chúng sanh chịu các khổ
Phát tâm nhân từ đại trí huệ
Nguyện thường lợi ích các thế gian
Lầu này của bậc Bi mẫn ở…

Con đường Bồ tát hợp nhất trí huệ và đại biTrí huệ là ánh sáng bao trùm toàn bộ pháp giới và đại bi xâm nhập vào các cõi giới và mỗi chúng sanh.

 

3/ Hạnh Bồ tát hợp nhất trí huệ và đại bi

Cũng trong phẩm Nhập pháp giới nói riêng với Thiện Tài đồng tử và toàn bộ Kinh Hoa Nghiêm nói chung, với tất cả các Bồ tát, các vị luôn luôn đi trong trí huệ của Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát và trong Đại hạnh Phổ Hiền Bồ tátĐại hạnh của Bồ tát Phổ Hiền cũng chính là đại bi thể hiện bằng hành động của ngài. Cũng bởi thế mà Phật Thích Ca được thờ ở giữa, bên trái ngài là Bồ tát Văn Thù, bên phải ngài là Bồ tát Phổ HiềnThành Phật là thành tựu trọn vẹn đại trí và đức hạnh mà Bồ tát Văn Thù và Bồ tát Phổ Hiền đại diện.

Hạnh Bồ tát là sự hợp nhất của trí huệ tánh Không và đại bi biểu lộ qua đại hạnh cứu giúp chúng sanh.

Sau đây là trích dẫn từ hai vị, sống cùng thời với nhau, một là ngài Padmasambhava (755-797) vị đã đưa Phật giáo Ấn Độ vào Tây Tạng và ngài Quy Sơn (771-853), vị lập ra phái Thiền Quy Ngưỡng ở Trung Hoa. Cả hai ngài nói về cái thấy của trí huệ tánh Không kết hợp với hạnh:

Cái thấy (tánh Khôngphải từ chót đỉnh núi đi xuống, trong khi hạnh phải từ chân núi đi lên” (ngài Padmasambhava).

Trong chỗ đất thật (tánh Khôngthì không thọ nhận một mảy bụi, nhưng trong cửa muôn hạnh thì chẳng bỏ một pháp nào” (ngài Quy Sơn). 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1174)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 733)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 835)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 795)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 755)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 765)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 765)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 662)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 929)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1240)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1413)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1146)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1472)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 936)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 845)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 946)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 964)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 932)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 965)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1083)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 907)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1056)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1052)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 974)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1011)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 930)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1088)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1036)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 959)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1057)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 984)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 921)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1022)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 964)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1201)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 991)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1073)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1231)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1668)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1237)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1312)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1186)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1043)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 1006)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1030)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 879)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1546)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1427)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1406)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1343)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant