Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 5

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 14077)
Phần 5

KINH BÁCH DỤ
Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996


41. Hai con quỷ tranh vặt

Thuở xưa có hai con quỷ lượm được một cái rương, một cây gậy, một đôi guốc, con nào cũng đều cho là riêng mình được, tranh chấp lẫn nhau mãi không thôi.

Bây giờ có người chạy đến thấy thế hỏi chúng nó

- Ba món nầy hữu dụng như thế nào, mà chúng bây giành nhau như vậy? 

Hai con quỷ trả lời:

- Cái rương có thể hiện ra các thức ăn, áo mặc, mùng mền và tất cả tài sản. Cái gậy anh chỉ cầm nơi tay thì tất cả thù địch đều quy phục nơi anh, không dám chống cự. Ðôi guốc cây nầy anh mang nó thì có thể đằng vân đến phương xa trong nháy mắt.

Người ấy nghe xong, bảo hai con quỷ:

- Chúng bây đi nơi khác độ vài phúc rồi trở về, ta sẽ phân xử công bình cho.

Hai con quỷ tin lời người kia chạy nơi khác. Người kia vội vã ôm rương, cầm gậy, mang guốc bay lên hư không, rồi từ trên hư không, nói với chúng nó:

- Hiện tại chúng bây đã được sự công bình, vì không còn chi để tranh dành nhau nữa.

Hai con quỷ nghe xong, phi thường khổ não, đều bó tay chịu mất của, không biết làm cách nào nữa được.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Sự bố thí cũng như cái rương báu, tất cả tư tài hưởng dụng ở cõi nhân, thiên đều từ trong nhơn lành bố thí mà có. Thiền định ví như cây gậy báu, người tu định có thể hàng phục được oán tặc, phiền não, tham, sân, si. Trì giới tỉ như đôi guốc báu, giới luật thanh tịnh được sanh thiên, hoặc chứng Niết bàn tịch tịnh. Hai con quỷ cũng như các tà ma ngoại đạo, bọn ngoại đạo ở trong ngoại đạo, bọn ngoại đạo ở trong pháp hữu lậu tìm cầu quả báo an vui, chung kết đều không thể toại nguyện. Chỉ có nhất tâm, nhất ý tu các hạnh lành như: bố thí, trì giới, thiền định v.v... Vì chỉ có những hạnh ấy mới có thể thoát ly khổ não chứng đạo Niết Bản an vui.

42. Che da lạc đà

Thuở xưa có người thương gia cùng hai đệ tự đắc con lạc đà ra xứ ngoài tìm kế sanh sống, đem theo một ít hàng lụa quý giá vô song và mùng mền tốt đẹp tột bực; tất cả hàng hóa đều chở trên lưng con lạc đà. Ði được nửa đường con lạc đà chết, người thương gia bèn lột da lạc đà để lại, rồi sữa soạn đi trước, bảo hai người đệ tử ở lại xem chừng. Khi chia tay, y căn dặn hai người đệ tử:

- Chúng con hãy chăm nom chút vật nầy cho kỹ lưỡng, hãy căng da con lạc đà ra đừng để nó ẩm ướt.

Sau khi người thương gia đi rồi, không bao lâu thì trời mưa rất lớn, hai người đệ tử sợ da lạc đà bị ướt, bèn đem hàng lụa quý giá và mùng mền tốt đẹp đậy lên. Nhưng hàng quý giá đem so với giá tiền da lạc đà, đắt hơn gấp trăm ngàn lần ấy đều bị hư mục.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người học Phật pháp, không chịu nghiêm trì tịnh giới, tu định, khai huệ mà chỉ một bề lo tu bồi công đức thí tài như: xây tháp, tạo chùa, cúng thí cho chung tăng v.v... Hành động như thế chỉ là bỏ gốc theo ngọn, không thể thoát ly sanh tử chứng quả Niết bàn.

Vì lẽ đó, Phật tử trước phải lo tinh nghiêm hộ trì giới luật, rồi sau mới tu tài thí và các hạnh lành, như hai người đệ tử của gả thương gia, phải trước lo giữ gìn những hàng hóa quý báu, rồi sau hãy gìn giữ da con lạc đà, như thế mới là hợp lẽ.

43. Mài đá

Thuở xưa có một người mỗi ngày chuyên tâm mài một viên đá lớn, trải qua nhiều năm trở thành viên đá nhỏ, kết quả chỉ có thể đem làm đồ chơi, không dùng được việc gì cả. Người kia làm một việc phí nhiều thì giờ và lao lực mà kết quả không có chi đáng kể.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Nhiều người tinh cần lao khổ tu học phải nên chí cầu đạo quả cao siêu, trái lại, chỉ cầu chút danh lợi, chổ dụng công rất nhiều mà thu hoạch rất ít, hoặc giả rủi ro lầm lạc, trở lại tăng thêm tội lỗi không cùng.

44. Ăn bánh

Thuở xưa có một người đương khi đói bụng, đến tiệm bánh mua bánh ăn, ăn một loạt sáu cái mà vẫn không no; mua thêm cái thứ bảy, vừa ăn được nửa cái thì no. Lúc bấy giờ y rất hối hận vừa vả miệng vừa nói rằng:

- Sao ta ngu ngốc không biết cần kiệm thế! Như quả sớm biết chỉ ăn nửa cái sau no, thì nên mua nổi nửa cái bánh sau; mua ăn làm chi sáu cái bánh trước cho hao phí thế?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu hành phải cần khổ tu học trải qua nhiều thời gian mới có ngày được quán thông chứng ngộ. Có một ít người không bền chí cần tu, chỉ ước mong mau chứng ngộ, cùng với người ăn báng kia để là hàng quan niệm sai lầm đáng thương.

45. Giữ của 

Thuở xưa có một người có việc cần đến phương xa, khi sắp đi, kêu người nô bộc dặn:

- Con ở nhà phải coi chừng cửa nẻo cho cẩn thậnxem lại giây buộc con lừa có chắc chắn không, đừng để nó sút giây chạy mất.

Sau khi người chủ đi rồi, ngày nọ, xóm gần có đờn ca xướng hát rất vui tai. Người nô bộc biết có đám hát vui như thế, trong lòng rộn rực không yên, muốn đi xem hát. Bây giờ bèn gỡ cửa buộc lên dưng lừa, dắt lừa đi xem hát.

Sau khi người nô bộc đi rồi, kẻ trộm vào nhà vơ vét hết đồ đạc, tiền của, không còn một món.

Khi người chủ trở về thấy trong nhà đồ đạc, tiền của bay đi đằng nào sạch trơn, rất lấy làm quái lạ, liền tra gạn người nô bọc rằng:

- Tại sao có việc lạ đời như thế?

Người bô bộc trả lời:

- Ông chủ bảo tôi giữ của, xem chừng giây buộc lừa và con lừa, bây giờ ba món ấy đều còn đủ, không sót một vật nào. Ngoài ra tất cả tôi đều không biết. 

Người chủ nghe nói thế tức giận vô cùng, nổi cơn thịnh nộ trách mắng người nô bọc rằng:

- Ngươi là đồ ngu ngốc, bảo ngươi giữ của, chính là vì giữ những tài vật trong nhà, bây giờ tài vật đã mất hết, còn lại những cánh cửa dùng vào việ gì?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ðức Như Lai dạy bảo chúng ta phải luôn luôn thâu nhiếp tâm niệm, giữ gìn sáu căn môn, đừng để giặc sáu trần xâm nhập. Có một ít người không chịu nghe lời Phật dạy, trở lại tham cầu danh lợi, mơ tưởng ăn ngon mặc đẹp, của nhiều, giữ chắc con lừa vô minh và sợi dây tham ái, mở rộng cửa lớn sáu căn; kết quả bị bọn trộm cướp sáu trần phiền não xâm nhập; tất cả tài bảo công đức, đạo phẩm đều mất, hằng trôi lăn trong biển sanh tử nghèo cùng.

46. Ăn trộm trâu

Thuở xưa có một người cùng làng, ăn trộm một con trâu, đem giết ăn thịt. Người mất trâu đi tìm đến làng ấy, thấy bọn họ mới hỏi rằng:

- Trâu ta có trong làng người không?

Bọn ăn trộm trâu trả lời:

- Chúng ta không có làng.

Trong làng của các người có một cái ao, các ngươi ở bên bờ ao giết trâu ta ăn thịt phải không?

- Chúng ta không có ao.

- Bên ao có một bụi cây phải không?

- Cũng không có bụi cây.

- Các ngươi ăn trộm trâu ở phía đông phải không?

- Không có phía đông.

- Các ngươi ăn trộm trâu vào lúc chính ngọ phải không?

- Không có chính ngọ.

- Cứ theo lời ngươi nói: Không có làng, không có ao, không có cây, thoi cho được đi. Không lẻ trong vủ trụ không có phương đông, không có chính ngọ? Do đấy ta biết chắc lời các ngươi đều là gian dối không thể tin. Trâu của ta nhất định là các ngươi bắt trộm ăn thịt rồi, không còn chối cải gì nữa.

Bọn dân làng ấy không còn đường chối cải đành phải cúi đầu nhận tội ăn trộm trâu.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu hành theo pháp của Phật mà đi phá giới phạm trai, thường thường che giấu tội ác, không chịu phát lổi sám hối, cải dữ làm lành, trở lại luôn luôn mượn đủ lý lẻ, bào chữa thuyết của mình, nhưng kết quả không thể nào che dấu nổi tội ác dã tạo phải chịu đủ khổ não đau buồn. Chỉ có những ai mạnh mẽ thừa nhận tội lỗi của mình đã trót tạo, khẩn thiết phát lời sám hối tội khiên, mới có thể bước lên đường giải thoát của chủ Phật.

47. Giả tiếng oan ương

Thuở xưa có một quốc gia đến ngày lễ khánh tiết các hàng phụ nữ dùng thứ hoa quý đẹp tên là ưu-bát-la giắt trên đầu, làm món đồ trang điểm tuyệt diệu.

Bây giớ có một người đàn ông nghèo thương vợ vô cùng; ngày lễ khánh tiết gần đến, các phụ nữ đều đã dự bị thứ hoa đẹp ấy để trang điểm, còn vợ y không có. Chị vợ biết chắc chắn mười phần mất thể diện, than với chồng rằng:

- Anh làm thế nào có hoa ưu-bát cho em trang điểm, em mới mãi mãi làm vợ anh, nếu không em xin ly dị.

Anh chồng nghe thế hoảng hốt lo sợ vô cùng, nhưng anh có tài giả tiếng chim oan uông, giống như hệt. Bây giờ mới nghĩ rằng: "Trong ao vua có rất nhiều hoa ưu-bát, ta tìm cách ăn trộm một ít cánh giả sử rủi ro người giữ ao biết được thì ta giả kêu tiếng chim oan ương.

Nghĩ thế rồi anh ta đi đến ao vua trộm hoa. Ðương khi thò tay bẻ, làm mặt nước trao động rung rinh, người giữ ao hay được hỏi rằng:

- Ai trong ao đó?

Anh ta kinh hoảng bối rối quên giả kêu tiếng chim oan ương, bèn vụt miệng nói:

- Ta là chim oan ương,

Người giữ ao nghe tiếng biết tiếng người bèn đến ao bắt anh giải đến vua trị tội.

Trong khi đi đường anh ta giả kêu tiếng oan-ương giọng in không khác một tí. Người giữ ao cười nhạt nói rằng:

- Hồi nảy không giả kêu, bây giờ mới giả kêu chẳng là vô ích?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Phàm muốn làm việc chi phải làm ngay cho kịp thời, không nên chuyện đang làm ngày nay mà cứ dần dà để đến ngày mai ngày mót; đến khi thời cơ thuận tiện qua rồi, hối hả làm cũng không kịp. Có một số ít người trọn đời làm ác, không bao giờ biết tự xét lại mình, đến khi sắp chết mới tỉnh ngộ ăn năn làm lành , lánh dữ, nhưng than ôi, có kịp đâu nào! Ðành phải tùy thời nghiệp ác báo.

48. Chó và cây

Thuở xưa có một con chó ngủ dưới gốc cây, thình lình có một trận gió thổi đến, cành cây gãy rớt trên lưng. Nó hoảng kinh chạy lại một chỗ trống dừng lại nghĩ, mắt vẫn nhắm, không thấy nhánh cây do đây gẫy đập vào lưng, cũng không trở lại xem bụi cây nọ. Ðến chiều nó vẫn còn ở tại đó nghỉ ngơi. Nhưng một lúc, sau nó mỡ mắt ra ngó tứ phía, thấy xa xa có một trận gió thổi qua các hàng cây, làm cho nhánh lá không ngưng chuyển động. Nó tự nói một mình: "Cây gọi ta trở về chỗ củ".

Thế rồi nó bon bon chại về dưới gốc cây xưa.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu học Phật pháp, chí nguyện phải kiên quyết không dời đổi, không nên vì sư trưởng la rầy quở trách, liền muốn bỏ đi. Trong thời gian lìa thầy cách bạn gặp nhiều nghịch cảnh khổ tâm, rồi ăn năn muốn trở về thân cận với sư trưởng.

Ði đi lại lại luống phí thời gian, thật là hành động sai lầm đáng thương xót.

49. Vị tiên lầm lộn

Thuở xưa có hai đứa nhỏ chơi tại bờ sông, chúng nó vớt được một sợi lông trên mặt nước. Bây giờ chúng nó mới tranh luận: Một đứa nói râu của Tiên, một đứa nói lông cọp, mỗi đứa đều có lý lẽ của mình là đúng hơn, mỗi đứa đều có do xác đáng, không đứa nào chịu nhường.

Bây giờ có một vị tiên từ bờ sông đi lại, chúng nó bèn đến thỉnh cầu phán đoán dùm. Vị tiên không trả lời ngay câu hỏi của chúng, mà thò tay trong đãy mình lấy ra một nắm hột vừng và gạo, bỏ vào miệng nhai ngấu một hồi, nhổ ra trên bàn tay trắng nõn, đưa cho chúng nó xem và nói:

- Nầy các em, vật gì trong tay ta thật giống phân con chim sẽ.

Hai đứa nó chẳng hiểu gì.

Vị tiên đáp không đúng lời chúng nó hỏi.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có người thuyết pháp ưa nói lý suông, viễn vong mơ hồ không rõ rệt, còn chánh lý thì không chịu thuyết trình, đối với người đã không lợi ích, mà tự mình chỉ luống nhọc tinh thần. Tình trạng tổn mình hại người ấy cùng với vị tiên đáp không trúng đề, đều là chuyện đáng chê cười cả.

50. Sửa lưng gù

Thuở xưa có một ngùi lưng gù, mời lương y điều trị. Lương y bèn dùng một ít sữa thoa trên lưng, rồi đè người kia ở giữa hai tấm ván, để nằm trên thềm nhà như người thương. Người ấy đau đớn không thể tưởng tượng và hai tròng con mắt đều lọt ra ngoài, rốt cuộc lưng gù vẫn không trị được.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có người muốn tu phước lành, làm việc bố thí, lại dùng những thủ đoạn phi pháp gian tham, tranh đoạt một cách khéo léo, tranh thủ tiền tài không chính đáng, đem ra thọ dùng: Xây tháp, cất chùa, bố thí, cúng Tăng và lên tượng Phật. Kẻ ấy cũng như vị lương y đem hai tấm ván ép lưng gù, mong chữa trị cho ngay thẳng và làm thế cũng chỉ tạo thêm nghiệp ác trầm luân, tăng gia khổ não, không thể viên thành công đức bố thí phần nào.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49749)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34630)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33449)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43927)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57073)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47564)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39418)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38478)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52935)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36598)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32240)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40473)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43486)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31451)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46712)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36209)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28695)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29241)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31890)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28829)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33364)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29136)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60976)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39772)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26675)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29665)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37377)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40088)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26836)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42657)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37283)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28286)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28896)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26394)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27172)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26184)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34644)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27803)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30474)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33284)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28568)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30076)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25493)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21844)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51302)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26727)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28626)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27705)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24358)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27461)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31930)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30185)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27702)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35443)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27442)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30013)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31773)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23026)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24179)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23022)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant