Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ hai: Niệm Phật phải vì phát vô thượng Bồ-đề tâm

21 Tháng Ba 201100:00(Xem: 12381)
Phẩm Thứ hai: Niệm Phật phải vì phát vô thượng Bồ-đề tâm

NIỆM PHẬT SÁM PHÁP

Tác giả: HT Thích Thiền Tâm

---o0o---

QUYỂN THƯỢNG

PHẨM THỨ HAI

NIỆM PHẬT PHẢI PHÁT VÌ VÔ THƯỢNG BỒ ÐỀ TÂM

 

Bản hoài đích thật của đức Thế Tôn là muốn cho tất cả chúng sanh đều thoát vòng sanh tử, đều được giác ngộ như Ngài cho nên, người niệm Phật cần phải phát bồ đề tâm- tức là phát khởi cái tâm chí mong cầu quả vị Phật Ðà, quả vị ấy là cứu cánh tối thượng, không còn có gì hơn, siêu việt cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác; nên phát tâm như vậy còn gọi là phát vô thượng bồ đề tâm. Tâm nầy gồm có hai loại chủng tử chính yếu, là Từ-Bi và Trí-Tuệ, thường hay phát xuất công năng độ thoát mình và cứu vớt tất cả chúng sanh.

Kinh dạy rằng : Bồ-Ðề tâm làm nhân, Ðại-Bi làm căn bản, phương tiện Trí-Tuệ làm cứu cánh.

Vì như người đi xa thì trước tiên phải nhận định mục tiêu sẽ đến và phải ý thức chủ đích cuộc hành trình bởi lý do nào- và sau cùng thì phải dùng phương tiện nào để khởi tiến.

Người học Phật cũng phải như thế nghĩa là, trước tiên phải lấy cái quả-vị Vô-Thượng Bồ-Ðề làm mục tiêu rốt ráo, lấy lòng đại bi lợi mình lợi người làm chủ đích thực hành, kế đó, tùy sở thíchcăn cơlựa chọn pháp môn để tu tập. Phương tiện còn là trí tuệ quyền biến tùy cơ nghi, áp dụng tất cả hạnh thuận-nghịch trong khi hành Bồ-tát đạo. Cho nên, Bồ đề tâmmục tiêu cần phải nhận định rõ ràng trước khi hành trì.

Kinh HOA NGHIÊM dạy rằng : Nếu quên mất tâm Bồ đềtu hành các thiện pháp, đó là ma nghiệp.

Thật vậy, nếu dụng công khổ nhọc mà quên sót mục tiêu cầu thành Phật để lợi mình và lợi người, thì bao nhiêu các hạnh lành chỉ đem đến kết quả hưởng phước báo nhơn thiên, chung cuộc vẫn bị chìm mê quanh quẩn trong nẽo luân hồi, chịu vô biên nỗi khổ. Như vậy chẳng là nghiệp ma thì còn gọi là gì? Thế thì, phát lòng vô thượng Bồ- đề để lợi ích cho chính mính và cho chúng sanh, là điểm phát tâm rất cần yếu.

Pháp môn Niệm Phật thuộc về pháp đại thừa, nếu phát Bồ-đề-tâm niệm Phật thì TÂM và PHÁP đều được toàn vẹn, sẽ đi đến quả viên giác kiêm cả tự lợilợi tha.

Muốn phát Bồ-đề-tâm , người niệm Phật cần phải quán sát để phát tâm một cách thiết thựchành động đúng theo tâm nguyện ấy trong suốt cuộc đời mình. Ðệ tử chúng con lâu nay phần nhiều chỉ tu theo hình thức mà ít chú trọng đến chỗ khai tâm thành thử lửa tam độctham sân si vẫn cháy hừng, không hưởng được hương vị thanh lương giải thoát như đức Phật dạy.

Muốn cho Bồ-đề-tâm phát sinh một cách thiết thực, cần nên suy tư quán sát để phát tâm theo sáu điểm như sau :

Ðiểm thứ nhất : GIÁC NGỘ TÂM

Chúng sanh thường chấp sắc thân nầy là Ta. Thường chấp cái tâm thứchiểu biết có buồn giận thương vui nầy là Ta. Nhưng thật ra, sắc thân nầy là giả dối, ngày kia khi chết đi, nò sẽ tan về với đất bụi, cho nên sắc thân tứ đại nầy không phải là Ta. Tâm thức cũng thế, nó chỉ là cái thể tổng hợp về cái biết của sáu trầnsắc thanh hương vị xúc pháp. Cái biết của ta khi thì có khi thì không – hình ảnh nầy tiêu hoại thì hình ảnh khác hiện ra, tùy theo trần cảnh mà thay đổi luôn luôn, hư giả không thật. Cho nên, tâm thức nầy không phải là Ta.

Cổ đức đã bảo : Thân như bọt tụ, tâm như gió Huyễn hiện vô căn, không tánh thật.

Nếu giác ngộ thâm tâm như huyễn thì sẽ không còn chấp trước, lần lần sẽ đi vào cảnh giới nhơn không, chẳng còn Ngã-Tướng. Cái Ta của ta đã là không, thì cái ta của người khác cũng là không nên chẳng còn Nhơn-Tướng. Cái Ta của ta đã là không, thì tấc cả cái Ta của vô số chúng sanh cũng là không. Nếu không còn Chúng sanh Tướng Cái Ta đã là không, nên không có bản ngã bền lâu, nên không thật có ai chứng đắc, không có ai thọ nhận, nên không có Thọ-Giả-Tướng.

Nhơn đã không thì Pháp cũng không, vì sự cảnh luôn luôn đổi thay sanh diệt, không có tự thể. Ðây lại cần nên nhận rõ : chẳng phải các pháp khi hoại diệt mới thành không, mà chính vì nó hư huyễn nên đương thể tức là không? : Cả Nhơn cũng thế. Khi giác ngộ là cả Nhơn và Pháp đều không, thì giữ lòng thanh tịnhtrong sáng, không chấp trước mà niệm Phật. Dùng lòng giác ngộ như thế mà hành đạo, mới gọi là phát Bồ-đề-Tâm .

Ðiểm thứ hai : BÌNH ÐẲNG TÂM

Trong khế kinh, đức Phật đã dạy rằng :Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, là cha mẹ đời quá khứ của ta và là chư Phật đời vị lai.

Chư Phật thấy chúng sanh là Phật nên dùng tâm bình đẳng đại bicứu độ. là đệ tử của Phật, chúng con phải tuân theo lời dạy của đức Thế Tôn. Cho nên đối với chúng sanh phải có tâm bình đẳng và tôn trọng. Tôn trọngthừa sự chúng sanhtôn trọng và thừ sự đức Như-Lai, làm cho chúng sanh hoan hỷ tức là làm cho chư Phật hoan hỷ. Kinh HOA NGHIÊM phẩm Phổ Hiền đã dạy như thế. Khi dùng lòng bình đẳng tôn kính mà tu niệm thì chúng con sẽ dứt được cái nghiệp chướng phân biệt và khinh mạn, rồi nhờ đó mà sẽ dứt trừ được mọi thứ phiền não để nẩy sinh các đức lành. Dùng lòng bình đẳng như thế mà hành đạo thì gọi là phát vô thượng Bồ-đề-tâm .

Ðiểm thứ ba : TỪ BI TÂM

Ðệ tử chúng con cùng tất cả chúng sanh đều sẳn đủ công đứctướng hảo cùng trí tuệ của Như-Lai do vì mê mờ chân tánh và dấy khởi hoặc-nghiệp nên phải bị luân hồi, chịu vô biên sự thống khổ. Nay đã rõ như thế chúng con cần phải dứt trừ tâm phân biệt yêu ghét, mà khởi lòng cảm hối từ bi, để tìm phương tiện độ mình cứu người, để cùng nhau được an vui thoát khổ. Cũng nên nhận rõ rằng Từ-Bi khác với Ái Kiến. Ái kiến là lòng thương yêu còn chấp luyến trên hình thức, trên tình cảm và tâm phân biệt, cho nên kết quả là bị sợi dây tình ái buộc ràng.

Từ bi là lòng xót thương cứu độ mà không phân biệt chấp trước, và xa lià mọi hình tướng. Tâm từ bi thể hiện dưới nhiều mặt, nên kết quả được an vui giải thoátphước huệ càng tăng thêm.

Muốn cho tâm từ bi được thêm rộng lớn thì phải xét từ nổi khổ của chính mình mà cảm thông đến các nổi khổ khó khăn khó chịu của kẻ khác, tự nhiên sanh ra lòng xót thương cứu vớt, niệm từ bi của Bồ-đề-tâm từ đó sẽ phát ra.

Trong kinh HOA NGHIÊM, Ngài PHỔ HIỀN Bồ tát đã khai khị rằng :

Bồ tát quán sát chúng sanh không nơi nương tựa mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh tánh chẳng điều thuận mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh nghèo khổ không căn lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh ngủ say trong đêm dài vô minh mà khởi đại bi, quán sát chúng sanh làm những điều ác mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh đã bị ràng buộc mà thích lao mình vào chỗ ràng buộc mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh chìm đắm trong biển sanh tử mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh vương mang tật khổ lâu dài mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh không ưa thích pháp lành mà khởi đại bi. Quán sát chúng sanh xa mất Phật Pháp mà khởi đại bi...

Ðã phát đại bi tâm thì tất phải phát vô thượng Bồ-đề-tâm , thề nguyền cứu độ. Vậy thì lòng đại từ bi là lòng đại bồ đề phải dung thông nhau. Cho nên, phát từ bi tâm tức là phát vô thượng bồ-đề-tâm. Dùng lòng đại bi như thế mà niệm Phật và sống đạo mới gọi là phát Bồ-đề-tâm .

Ðiểm thứ tư : HOAN HỶ TÂM

Ðã có xót thương thì phải thể hiện lòng xót thương áy qua tâm hoan hỷ, hoan hỷ gồm có hai thứ : Tùy hỷhỷ xả.

Tùy hỷ là khi thấy trên từ chư Phật và thánh nhân, dưới cho đến các loại chúng sanh có làm được công đức gì dù lớn dù nhỏ, đều cũng vui mừng theo. Và khi thấy ai được sự phước lợi, hưng thạnh, thành công, an ổn cũng sanh ra ý niệm vui vẻ, mừng giùm cho họ.

Hỷ xả là dù có chúng sanh làm những điều tội ác, vong ân, khinh hủy hiểm độc, tổn hại cho mình, đều cũng an nhẫn, vui vẻ mà bỏ qua.

 Lòng tùy hỷ sẽ trừ được các chướng ngại của sự ganh ghét nhỏ nhen. Lòng hỷ xã sẽ giải trừ được chướng ngại của sự hận thù báo phục. Bởi vì tâm hoan hỷ không ngoài sự giác ngộthể hiện, nên đó chính là lòng bồ đề.

Dùng lòng hoan hỷ như thế mà niệm Phật, mới gọi là phát bồ đề tâm

Ðiểm thứ năm : SÁM NGUYỆN TÂM

Trong kiếp sống luân hồi dằng dặc lâu xa, mọi loài chúng sanh thường đổi thay hình dạng và làm quyến thuộc lẫn nhau. Nhưng vì đệ tử chúng con mê mờ lầm lạc, từ vô thủy cho đến ngày nay, do tâm chấp ngã chỉ muốn lợi mình, nên đã từng làm tổn hại chúng sanh, tạo ra vô lượng vô biên ác nghiệp Thậm chí đến chư Phật và thánh nhân, vì tâm đại bihiện ra nơi đời để thuyết pháp cứu độ tất cả các loài, trong ấy có cả chúng con- vậy mà đối với ngôi Tam-Bảo, chúng con đã từng sanh lòng vong ân hủy phá.

Ngày nay biết được lỗi lầm của mình, đệ tử chúng con vô cùng hổ thẹnăn năn, xin chí thành sám hối cả ba nghiệp thân khẩu ý.

Ngay cả đức Di-Lặc Bồ tát dù đã chứng ngôi vị Bất-Thoái, vì muốn mau đắc quả Phật mà mỗi ngày còn lễ sám sáu thời. Vậy chúng con xin đem thân nghiệp kính lễ Tam-Bảo, khẩu nghiệp tỏ bày tội lỗi cầu mong được tiêu trừ, và đem ý nghiệp thành khẩn ăn năn, thề không tái phạm.

Sau khi sám hối, chúng con xin dứt hẳn tâm nhơ và hạnh ác, không còn cho tiếp tục tái phạm nữa, để đi đến chỗ tâm và cảnh đều KHÔNG, đó mới thật là sám hối chân chánh. Lại phải phát nguyện rằng: Nguyện hưng long ngôi Tam-Bảo, nguyện độ khắp chúng sanh , nguyện hoằng truyền pháp môn Niệm Phật – để chuộc lại lỗi xưa và đền đáp bốn ơn nặng, đó là ơn Tam-Bảo, ơn cha mẹ, ơn sư trưởng cùng thiện hữu trí thức, cuối cùng là ơn của tất cả chúng sanh .

Ðiểm thứ sáu : BẤT THOÁI TÂM

Dù đã sám hối, phát nguyện tu hành nhưng nghiệp hoặcma chướng không dễ gì dứt, và sự lập bồi công đức không dễ gì thành tựu. Mà con đường hồ đề đi đến quả viên giác xa vời vợi lại đầy cam go chướng ngại. Ngài XÁ LỢI PHẤT trong tiền kiếp chứng đến ngôi lục trụ, phát đại bồ đề tâm tu hạnh bố thí. Nhưng khi chịu khổ để khoét một con mắt cho người ngoại đạo, bị họ không dùng, liệng xuống đất rồi nhổ nước dãi, lấy chân chà đạp lên trên. Ngài liền thối thất đại thừa tâm.

Như vậy, muốn giữ vững tâm nguyện, là điều không phải dễ dàng. Ðệ tử chúng con chỉ vì muốn đạo tâm không thối chuyển thì phải lập nên thệ nguyện thật kiên cố.

Ðệ tử chúng con thề rằng : thân nầy dẫu chịu vô lượng sự nhọc nhằn khổ nhục, hoặc bị đánh giết cho đến thiêu đốt nát tan thành tro bụi, cũng không vì thế mà phạm vào điều ác, mà thối thất trên bước tu hành. Dùng lòng bất thoái chuyển như thế mà niệm Phật, mới gọi là phát vô thượng Bồ-Ðề tâm.

Ðó là sáu yếu điểm bắt buộc phải có của người phát vô thượng bồ đề tâm. Nếu không dựa vào sáu điểm ấy để lập chí tu hành thì dù nói phát tâm, cũng chỉ là nói suông mà thôi, không thể nào đi đến Phật quả. Trước mắt chúng con chỉ có hai con đường : luân hồigiải thoát. Ðường giải thoát tuy có lắm nỗi gian nan, nhưng mỗi bước đều đi lần lần đến chỗ sáng suốt an vui. Ðường luân hồi dù được tạm hưởng phước báo nhơn thiên, nhưng kết cuộc phải chuyển đến cảnh tam đồ, ác đạo, sự khổ vô biên không biết đến kiếp nào mới ra khỏi.

Vì vậy, mà đệ tử chúng con quyết chí niệm Phật suốt đời, nguyện vì hết thảy chúng sanh mà phát vô thượng bồ đề tâm mà hoàn thành Phật-Ðạo. Bởi lẽ muốn sớm chứng đắc Phật quả, muốn thành tựu bồ đề tâm nguyện, mà chúng con phải đốc lòng cầu vãng sanh cực lạc- cũng như phải niệm Phật chuyên cần.

 

NHỮNG HUẤN THỊ VỀ bồ đề tâm

 

kinh HOA NGHIÊM có dạy rằng :

Nầy thiện nam tử! Bậc Bồ-tát phát lòng vô thượng bồ đề là : khởi lòng đại bi cứu độ tất cả chúng sanh khởi lòng cúng dường chư Phật, cứu cánh thừa sự. Khởi lòng khắp cầu chánh pháp tất cả không sẻn tiếc. Khởi lòng thú hướng rộng lớn cầu Nhất Thiết Trí. Khởi lòng đại từ vô lượng khắp nhiếp tất cả chúng sanh. Khởi lòng không bỏ rời các loài hữu tình, mặc áo giáp kiên thệ để cầu bát nhã ba-la-mật. Khởi lòng không siểm dối với vì cầu được trí Như-Thật. Khởi lòng thật hành y như lời nói, để tu đạo Bồ-tát. Khởi lòng không dối đối với chư Phật vì gìn giữ thệ nguyện lớn của tất cả Như-Lai. Khởi lòng nguyện cầu Nhất Thiết Trí cùng tận kiếp vị lai giáo hóa chúng sanh không ngừng nghỉ. Bồ-tát dùng những công đức Bồ đề tâm nhiều như vi-trần-số cõi Phật như thế-nên được sanh vào nhà Như-Lai.

Nầy thiện nam tử! Như ngươi học bắn trước hết phải tập thế đứng, rồi sau mới học đến cách bắn. Cũng thế, Bồ-tát muốn học đạo Nhất Thiết Trí của Như-Lai, trước hết phải an trụ nơi Bồ đề tâm, rồi sau mới tu hành tất cả Phật- Pháp. Thiện nam tử! Ví như vương tử tuy hãy còn thơ ấu song tất cả đại thần đều phải kính lễ. Cũng thế, Bồ-tát tuy mới phát Bồ đề tâm tu bồ tát hạnh, nhưng tất cả bậc kỳ cựu hàng nhị thừa đều phải nể vì kính trọng.

Thiện nam tử! Như thái tử tuy đối với quần thần chưa được tự tại, song đã có đầy đủ tướng trạng của vua, mà các bầy tôi không thể sánh bằng, bởi nhờ chổ xuất sanh tôn quý. Cũng thế, Bồ-tát tuy đối với các nghiệp phiền não chưa được tự tại, song đã đầy đủ tướng trạng Bồ-đề, hàng nhị thừa không thể sánh hàng, bởi nhờ chủng tánh đứng vào bậc nhất.

Thiện nam tử! Như người máy bằng gỗ nếu không có mấu chốt thì các thân phần rời rạc chẳng thể hoạt động. Cũng thế Bồ-tát nếu thiếu Bồ đề tâm thì các hạnh lành đều bị phân tán, không thể thành tực tất cả Phật-Pháp.

Thiện nam tử! Như chất kim cương thì tất cả mọi vật không thể phá hoại, trái lại có thể phá hoại tất cả vật khác, song thể tánh của nó vẫn không tổn giảm. Bồ đề tâm của Bồ-tát cũng thế, khắp ba đời trong vô số kiếp giáo hóa chúng sanh , tu các khổ hạnh, việc hàng nhị thừa không thể làm mà Bồ-tát đều làm đuợc, song kết cuộc vẫn chẳng chán mỏi giảm hư.

PHỔ HIỀN Bồ-tát dạy rằng :

Thiện nam tử! Bồ-tát vì điều phục giáo hóa tất cả chúng sanh nên phát Bồ đề tâm. Vì trừ diệt khổ tụ cho tất cả chúng sanh nên phát bồ-đề tâm. Vì đem cho tất cả chúng sanh sự an vui đầy đủ nên phát bồ-đề tâm. Vì dứt trừ sự ngu tối cho tất cả chúng sanh nên phát bồ-đề tâm. Vì đem lại Phật-Trí cho tất cả chúng sanh nên phát bồ-đề tâm. Vì tùy thuận lời dạy của Như-Lai khiến chư Phật hoan hỷ nên phát bồ-đề tâm. Vì muốn thấy sắc thântướng hảo của tất cả chúng sanh nên phát bồ-đề tâm. Vì cung kính cúng dường tất cả chư Phật nên phát bồ-đề tâm. Vì muốn nhập vào trí tuệ rộng lớn của tất cả chư Phật nên phát bồ-đề tâm. Vì muốn hiển hiện các Ðức, Lực, Vô-Úy của chư Phật nên phát bồ-đề tâm .

Ðệ tử chúng con vẫn nhận thức tất rõ rằng : nẻo luân hồi có quá nhiều chướng nạn, nếu chưa chứng quả Vô-Sanh thì khi chuyển sang kiếp sống khác ắt dễ bị hôn mê sa đọa.

Cho nên, muốn bảo đảm cái tâm vô-thượng bồ-đề không bị thối thất và để dễ dàng thành mãn chí nguyện độ sanh, chúng con phải gấp rút thanh toán vấn đề Sống Chết bằng cách cầu vãng sanh cõi Cực-Lạc.

Như vậy, nhờ sự giáo huấn của đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni, nhờ oai lực vĩ đại của bản nguyện A-Di-Ðà, mà từ nay chúng con đã biết rõ Niệm Phật thì phải phát vô thượng Bồ đề tâm.

Với tấm lòng tri ân tha thiết và chân thành, đệ tử chúng con xin đem cả tánh mạng mà quy yđảnh lễ:

Nam mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật .

Nam mô Ðại từ Ðại bi A-Di-Ðà Phật vị đạo sư tiếp dẫn vãng sanh Cực-Lạc.

Nam mô Cứu khổ cứu nạn Ðại từ đại bi Quán Thế Âm Bồ tát.

Nam mô Ðại hùng Ðại lực Ðại thế chí Bồ tát.

Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12541)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14118)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10865)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10539)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11211)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12018)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13172)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13666)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33689)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11360)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12949)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13076)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11647)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17914)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11457)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11880)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11526)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18995)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12572)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11355)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13161)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15799)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11840)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11711)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12789)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12649)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13986)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13011)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12971)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13312)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12790)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12725)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11777)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11751)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12358)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12402)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19848)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11981)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12005)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16908)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12692)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15077)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16141)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12912)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12262)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11940)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11943)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13175)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16525)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13244)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12512)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11840)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19880)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11178)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11276)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10417)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11112)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10987)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10055)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11768)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant