Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Phẩm Xa Lìa Phân Biệt

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9386)
12. Phẩm Xa Lìa Phân Biệt

KINH BÁT CHU TAM MUỘI
Ðời Tùy Tam Tạng, Khất Ða và Cấp Ða
Việt dịch: HT Thích Minh Lễ

Quyển Thứ Ba
Phẩm Thứ Mười Hai - Xa Lìa Phân Biệt

Bấy giờ Hiền Hộ bồ tát thưa Phật:

Bạch Thế Tôn! Làm thế nào quán tưởng về tam muội nầy?

Phật dạy:

Nầy Hiền Hộ! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghĩ muốn quán tưởng tam muội nầy, lúc quán sắc, thinh, vị, xúc, pháp không nên đắm trước, lúc quán về các loài, tất cả nơi chốn, không đắm trước, đối với pháp nầy luôn luôn khởi hạnh đại từ chơn thật. Trong tất cả pháp như pháp hành, nếu các Bồ tát lúc quán niệm xứ nên quán sát thân hành không phân biệt thấy chỗ thân vận hành, quán sát thọ hành cũng không phân biệt thấy chỗ lãnh thọ thay đổi, quán sát tâm hành cũng không phân biệt thấy chỗ tâm vận hành, quán sát pháp hành cũng không phân biệt thấy chỗ pháp di động Bồ tát nên quán sát suy tưởng tam muội như thế. Tại sao vậy? Nầy Hiền Hộ! Là vì khi Bồ tát quán thân hành không sanh suy nghĩ phân biệt nơi thân, quán thọ hành, tâm hành, pháp hành cũng không phân biệt suy nghĩ nơi thọ, tâm, pháp. Tại sao? Vì tất cả pháp đều không thể được làm gì có phân biệt suy nghĩ. Hiền Hộ! Thế nên tất cả pháp khôngphân biệt, không người phân biệt, không có suy nghĩ, không người suy nghĩ, phải biết trong đó không pháp nào có thể thấy được. Hiền Hộ! Vì không thể thấy nên vô ngại, trong tất cả pháp không bị chướng ngại tức là Bồ tát hiện tiền tam muội, khi Bồ tát thành tựu tam muội nầy tức đặng thấy vô lượng vô số quá A tăng kỳ các đức Phật và nghe hết những lời gì các ngài dạy, nghe pháp qua rồi đều có thể thọ trì được ngay cả những môn giải thoát vô ngại, giải thoát tri kiến của các đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, cũng có năng lực đắc trí vô ngại.

Lại nầy Hiền Hộ! Lúc Bồ tát quán sát tứ niệm xứ không pháp có thể thấy, không tiếng có thể nghe, vì không thấy nghe nên không pháp có thể phân biệt được cũng không có pháp để suy nghĩ. Tuy vậy nhưng không phải là hạng đui mù điếc lãng, chỉ vì các pháp không thể thấy được, thế nên lúc quán không sanh trụ trước. Lại thấy các đạo, vì suy gẫm về đạo nên đối các pháp không còn kẹt lưới nghi nên thấy Như Lai, thấy được Như lai nên xa lìa hẳn mê mờ, không có mê mờ nên biết tất cả pháp rốt ráo không thể thấy được. Tại sao? Bởi vì nếu Bồ tát có thấy, chấp giữ sự thấy; vì giữ thấy chắc giữ tướng pháp, giữ tướng pháp chắc kẹt vào sự việc, do kẹt sự việc nên thấy chúng sanh, thọ mạng, vì thấy thọ mạng chắc thấy có năng lực đưa loài hữu tình thọ sanh, vì thấy năng lực thọ sanh nên thấy có ấm, vì thấy ấm nên thấy nhập, do thấy nhập nên thấy giới, do thấy giới chắc thấy tướng, vì thấy tướng sẽ thấy vật, do thấy vật chắc thấy nhơn, thấy nhơn chắc lại thấy duyên, vì thấy duyên nên đeo đuổi tìm cầu, do tìm cầu nên hữu sanh. Tại sao? Nầy Hiền Hộ! Vì tất cả pháp rốt ráo không thể nắm giữ, vì không thể nắm giữ nên Bồ tát đối với tất cả pháp không nghĩ không nhớ, không thấy, không nghe. Nầy Hiền Hộ! Không phải như các ngoại đạo, hàng đệ tử ngoại đạo chấp nắm thần hồnngã kiến. Bồ tát không bao giờ có sự thấy biết như thế. Nhưng thấy thế nào? Bồ tát thấy như Như Lai thấy không hề thối chuyển, Bồ tát thấy như sự thấy của Duyên giác, Thinh văn. Bồ tát nên thấy như vậy. Vì thấy như vậy nên không ghi nhớ, không thấy, không nghe. Do không ghi nhớ và thấy nghe nên diệt các vọng tưởng tức đắc nội quán tam muội như vậy.

Nầy Hiền Hộ! Thí như hư không vốn không hình sắc không thể nhìn thấy gì, không có gì ngăn ngại, không là nơi nương tựa, không có chỗ dừng, trong suốt không bị nhiễm cũng không nhơ bợn, các hàng Bồ tát thấy các pháp cũng như vậy, nghĩa là đối với tất cả pháp hữu vi vô vi không bị ngăn ngại không có nơi chốn cho đến mắt thanh tịnh không bị chướng ngại nên tất cả pháp tự nhiên hiện tiền, Bố tát niệm như thế tức thấy các Phật hình tượng trang nghiêm rực rỡ như vàng ròng đầy đủ các oai nghi khác gì trăm ngàn ánh sáng tập họp chói sáng một vùng, như ánh trăng tròn mùa thu muôn sao lấp lánh bao quanh, như vua Chuyển Luân quần chúng đông vầy, như Thiên Đế Thích là bậc tối tôn, như đại Phạm vương ngự giữa ngôi trời, như vua sư tử oai khiếp các thú, như chim Hạc sắc lông thuần trắng bay liệng giữa trời, như núi Tu Di sừng sững giữa biển, như đại tuyết sơn sản xuất thuốc hay, như núi thiết vi ngăn đón gió dữ, như thủy giới ngăn chận địa đại, như luồng gió lớn quét sạch hư không, như trên đỉnh Tu di có cung trời tráng lệ. Nầy Hiền Hộ! Các đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến trí dùng ánh sáng trí đức soi sáng tất cả tam thiên đại thiên thế giới chư Phật việc đó cũng như vậy.

Nầy Hiền Hộ! Hàng Bồ tát nầy trong lúc chánh quán lại nghĩ thế nầy: Đấng Như Lai có giảng dạy gì con đều nghe nhận nghe rồi đọc tụng, thọ trì, tu hành, nghĩ như vậy rồi xuất khỏi tam muội như trong lúc nhập định nghe pháp, suy gẫm nghĩa lý đem ra giảng nói cho người.

Nầy Hiền Hộ! Ông phải biết tam muội vương nầy đem lại sự lợi ích như thế và các công đức vĩ đại như vậy, đó là: các pháp thế gianxuất thế gian cho các Bồ tát. Hiền Hộ! Vì vậy nếu thiện nam thiện nữ theo ý muốn cầu chứng vô thượng bồ đề nên nghe nhận tam muội nầy, nghe rồi nên biên chép, đọc tụng thọ trì, tu tập suy gẫm, đem ra phổ biến cho kẻ khác để diệu pháp được truyền bá rộng rãi trong đời.

đức Thế Tôn nói lên bài kệ để lập lại nghĩa trên: 

Các Phật trong sạch, lìa trần cấu 
Công đức sâu rộng không chỗ nương 
Chuông trống kiên tương các tiếng hay 
Đầy đủ muôn loại để cúng dường
Bày biện các hương thơm nhứt đời 
Tràng hoa đẹp lạ lọng báu quý 
Đốt đèn cúng dường các tháp miếu 
Chỉ vì cầu chứng tam ma đề
Phật pháp rộng sâu khó thể thấy 
Khai mở thế đế cho người biết 
Họ như tự tánh trước không đổi. 
ông nên tùy thuận trí vô ngại 
Như nhật nguyệt thiên vừa hiện ra 
Đế thích dẫn theo băm hai trời 
Các món trang sức để dẫy đầy 
Cần cầu tam muội lòng cũng thế
Ví như Phạm thiên giữa chúng Phạm 
Oai nghi tịch tịnh công đức đủ 
Dõng mãnh siêng năng khó sách được 
Lòng cầu tam muội giống như vậy. 
Lại như y vươngtrong đời 
Cấp cho kẻ bệnh các thuốc hay 
Thuận theo chư Phật tâm trong sạch 
Ban sơ chia ly bổn không tánh 
Dường như tuyết sơn là vua núi 
Sáng rở đồng như Chuyển luân vương 
Cũng như xe báu trang sức đẹp 
Thấy tướng các Phật có khó đâu! 
Lại như hạc vương lượn giữa trời 
Bay đi bay lại rất thong dong 
Các Phật thân vàng cũng như vậy 
Là hàng Phật tử cần nhớ thế, 
Vô cấu tam muội đèn tịnh trí 
Phá được tối đen các hắc ám
Người nào phá hết các vật tưởng 
Niệm các Phật trí vô ngại quang
Các cấu tiêu diệt, vô minh sạch. 
Nếu quán sát được không tự tha 
Kẻ nầy không khởi các sắc tướng
Trong không nghi hoặc sanh tịnh trí 
Thảy đều dứt sạch các hữu kiến
Cũng đã diệt sạch tưởng ấm giới 
Nghe pháp trừ não đặng thanh lương
Tỳ kheo nên biết các Phật tử 
Và các tỳ kheo ni thanh tịnh 
Cùng các cư sĩ được như thế 
Nếu như niệm được tam muội nầy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19677)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23940)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41180)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19661)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23958)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21733)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23282)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27478)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26524)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29289)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33153)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20171)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25734)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20885)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31262)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38518)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21402)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44214)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29791)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42142)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22114)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45699)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32082)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23936)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24354)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29223)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33878)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27653)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21036)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28827)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21538)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28003)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22047)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19476)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19443)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19807)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19211)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29129)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20594)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28259)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23623)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33143)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31816)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21354)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39588)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21528)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19357)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26334)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24791)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21729)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22354)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29113)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22538)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20453)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23476)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21224)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35261)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24535)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant