Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Phẩm Công Ðức Thọ Trì

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9575)
9. Phẩm Công Ðức Thọ Trì

KINH BÁT CHU TAM MUỘI
Ðời Tùy Tam Tạng, Khất Ða và Cấp Ða
Việt dịch: HT Thích Minh Lễ

Quyển Thứ Ba
Phẩm Thứ Chín - Công Ðức Thọ Trì

Khi ấy Bồ tát Hiền Hộ, chàng thanh niên Ly Xa Bảo Đức, thiện thương chủ phú hộ Da Ha Cấp Đa, Na La Đạt Ma Nạp, Thủy Tiên cùng với năm trăm đồ chúng nghe lời Phật dạy đều lấy làm vui mừng liền đem năm trăm y phục tuyệt đẹp dâng lên Thế Tôncúng dường ngài nhiều phẩm vật khác.

Đức Thế Tôn mới bảo A Nan:

Nầy A Nan! Hiền Hộ Bồ tát lúc nào cũng thường làm bậc thầy của năm trăm đồ chúng dạy cho họ các ý nghĩa trọng yếu của các pháp, giáo hóa vỗ về làm cho họ vui vẻ. Do có vui nên bọn họ sanh tâm tùy thuận, chơn thật, trong sạch ly dục phá trừ các phiền não không bị nó bao bọc trói buộc

Liền đó năm trăm người nhứt tâm chấp tay cung kính làm lễ Phật và lui ngồi một bên.

Hiền Hộ mới thưa:

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát cần đủ mấy pháp mới có khả năng đắc môn niệm Phật tam muội nầy?

Phật dạy:

Nầy Hiền Hộ! Nếu đại Bồ tát có đủ bốn pháp như sau sẽ đắc được tam muội. Một là không đắm say lý thuyết của tất cả ngoại đạo, hai là không ưa tất cả việc ái dục, ba là thường không bỏ rơi công đức đầu đà, bốn là luôn nhàm chán ba cõi các chỗ thọ sanh do phiền não. Bồ tát thành tựu bốn pháp nầy sẽ đắc tam muội.

Nầy Hiền Hộ! Nếu thiện nam thiện nữ đọc tụng thọ trì kinh tam muội nầy, hoặc có lúc đem ra giảng nói cho kẻ khác hiện tiền liền được năm thứ công đức: một là không bị tất cả các độc tổn hại, hai là không bị tổn thương bởi binh khí gậy gộc, ba là không bị tai nạn nước: chết chìm v.v... bốn là không bị lửa dữ đốt cháy, năm là không bị ác vương, huyện quan có dịp làm hại.

Tại sao được như thế? Là vì nhờ sức từ tâm của tam muội.

Nầy Hiền Hộ! Giả sử thế gian lâm vào kiếp hoại cả thế giới chìm đắm trong biển lửa, trời đất cháy đỏ rực, nếu như có kẻ thọ trì kinh nầy hoặc trai hay gái dù có bị rơi vào lửa đỏ nhưng nhờ oai thần của tam muội, lửa đỏ liền tắt, không bao giờ có chuyện không tắt.

Hiền Hộ! Kẻ thiện nam thiện nữ lúc thọ trì kinh nầy không bao giờ bị ác vương, ác huyện quan, trộm cướp, sư tử, cọp, sói, rắn độc làm hại. Lúc họ tu hành kinh nầy cũng không hề bị dạ xoa, la sát, ngạ quỷ, cưu bàn trà, tỳ xá xà cho đến tất cả loài phi nhân cản trở phá hoại được. Kẻ thiện nam thiện nữ lúc đọc tụng kinh nầy, lúc suy gẫm ý nghĩa, lúc giảng nói cho người, lúc nhập vào tam muội, lúc hành phạm hạnh cũng không xảy ra việc mất y mất bát cho đến các việc chướng ngại, trừ ra do dư báo đời trước xoay chuyển không được. Kẻ thọ trì kinh tam muội nầy cũng không mắc bịnh mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm, các hoạn nạn khác cho đến tai nạn nguy kịch táng mạng, chướng ngại phạm hạnh. Kẻ thiện nam thiện nữ được nghe, thấy, biết đầy đủ về kinh tam muội như thế nếu như họ không gặp được Phật, không gìn giữ chánh pháp lại phá hoà hiệp tăng trái nghịch với Phật Bồ đề, thật là việc không bao giờ có thể xảy ra!

Nầy Hiền Hộ! Kẻ thiện nam thiện nữ thọ trì kinh nầy được tất cả trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà, nhân phi nhân, bốn đại thiên vương, Đao lợi thiên vương, phạm thiên vương cho đến các đức Phật Thế Tôn đều hết lòng ca ngợi.

Lại nầy Hiền Hộ! Thiện nam thiện nữ thọ trì kinh nầy luôn luôn được sự mến kính của tất cả trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà, nhân, phi nhân, bốn đại thiên vương, Đao lợi thiên vương, đại phạm thiên vương, các hàng bồ tát cho đến tất cả chư Phật Thế Tôn.

Lại nữa kẻ thiện nam thiện nữ nhờ sức của kinh nên luôn luôn được sự bảo vệ của tất cả trời, rồng, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lầu la, khẩn na la, ma hầu la dà, nhân, phi nhân, bốn đại thiên vương, Đạo lợi thiên vương, đại phạm thiên vương, tất cả hàng Bồ tát Phật Thế Tôn.

Các bậc Bồ tát cho đến chư Phật Thế Tôn trong ngày đêm hoặc trong giấc mộng, các ngài hiển hiện hình tượng tự xưng danh hiệu rồi xoa đầu an ủi người trì kinh tam muội nầy và khen ngợi cùng khuyến khích họ.

Lại nữa kẻ thiện nam thiện nữ dù chưa từng nghe đến các kinh điển khác ngoài kinh này nhưng nhờ sức oai thần tam muội nên khiến xui tự nhiên có người đến nói hay nằm mơ nghe được, nghe rồi ghi nhớ rành rẽ không quên.

Nầy Hiền Hộ! Ta nói về công đức của kẻ thiện nam thiện nữ chỉ tạm thời thọ trì kinh tam muội vi diệu nầy dù trải qua nhiều kiếp cũng chưa hết được, huống chi kẻ đã nghe được tam muội nầy rồi y theo lời dạy tu hành, sống như chánh pháp.

Sau đó Thế Tôn nói lên bài kệ để lập lại nghĩa trên: 

Nếu người có khả năng giải thích 
Tam muội tịch tịnh của chư Phật 
Giả sử ta nay nói công đức 
Khác nào hạt cát giữa sông Hằng
Nếu vì kẻ khác nói tam muội 
Nước không nhận chìm, lửa không cháy 
Không bị thương tổn bởi dao gậy 
Ác vương, ác quan không hại được 
Nếu hay đọc tụng tam muội kinh 
Nào sợ tất cả việc khủng bố 
Oai lực kinh nầy diệt trừ hết 
Ngay cả nộc độc của đại xà. 
Kẻ thọ trì được kinh điển nầy 
Cũng không sợ sệt các kẻ ác 
Dạ xoa, la sát và các rồng 
Bọn nầy đâu có dịp làm hại. 
Nếu ai giải nói tam muội nầy 
Họ không mắc bịnh và nạn tai 
Sanh ra báo nhãn không hề mờ 
Lời nói êm ái, biện luận hay. 
Nếu người thực nghiệm thiền thâm diệu 
Thân thể mạnh mẽ không bịnh hoạn 
Cả đời xa hẳn các ác sắc 
Nào có lo phải sa địa ngục
Nếu ai đọc tụng kinh tam muội 
Được trời, long thần đều bảo vệ 
Da xoa, la sát kẻ oán thù 
Vừa đến đã hoảng cùng bỏ chạy. 
Nếu ai nói kinh cho kẻ khác 
Trời, rồng, dạ xoa lòng mừng vui 
Các trời tối ngày luôn ca tụng 
Chư Phật Thế Tôn thương như con. 
Nếu vì kẻ khác đọc kinh nầy 
Không có nghi nan tất cả pháp 
Được dung nhan đẹp khó ai bì 
Há lại thối giảm Bồ đề đạo 
Nếu người đem dạy cho kẻ khác 
Dù gặp vua ác, dân ly loạn 
Vào năm khô hạn, lúa gạo thiếu 
Không bao giờ đói, hoặc bị hại. 
Nếu người giải nói tam muội nầy 
Thu hoạch công đức khó suy lường 
Dù có loài ma hại chúng sanh 
Cũng khó đụng đến lông hay tóc 
Ta đă nói về kẻ trì kinh 
Các nạn, sợ hãiphiền não 
Không có bao giờ tổn hại được 
Chỉ trừ nghiệp trước cố định rồi. 
Nếu ai bảo vệ được kinh nầy 
Chính họ là trưởng tử của Phật 
Ta đã ca ngợi họ lâu rồi 
Đời tương lai cũng sẽ khen ngợi. 
Nếu ai gìn giữ pháp thế nầy 
Tự nên luôn sanh lòng hoan hỷ 
Đều nên phổ biến chớ bỏ rơi 
Lời Phật hôm nay dạy như vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19739)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23991)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41251)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19723)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24032)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21756)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27523)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26588)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29356)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33234)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25804)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20946)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31357)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38625)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21465)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44301)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29864)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42262)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22166)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45809)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32147)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23990)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24428)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29317)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33945)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27711)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32186)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28879)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28119)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22092)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21460)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19542)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19493)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19851)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19284)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29233)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20646)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28329)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23678)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33233)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31880)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21426)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39680)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21588)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19407)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26434)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24857)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21775)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22414)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29169)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20490)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23561)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21265)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35380)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24579)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant