Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả Ca Chiên Diên

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9106)
Tôn giả Ca Chiên Diên

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn


 Tôn giả Ca Chiên Diên (Katyayana):
Thuyết Pháp Tinh Yếu.

Tôn giả Ca Chiên Diên là con của một vị quốc sư của nước A Bàn Đề thuộc miền Nam nước Ấn Độ. Tiên A Tư Đà vị thần thông bác học của Ấn Độ thời bấy giờ, người đã đến xem tướng cho Thái tử Tất Đạt Đa khi Ngài mới đản sanh chính là cậu ruột và cũng là sư phụ đầu tiên của tôn giả. Sau tôn giả quy y theo Phật trở thành A La Hán và trong số mười đại đệ tử của Phật thì tôn giả nổi tiếng là đệ nhất nghị luận vì ngài có tài biện luậnlời nói diệu dàng làm mọi người kính phục. Ngoài tài biện thuyết, tôn giả còn làm ra bộ Thi Thiết Túc Luận gồm có 18 ngàn câu kệ và một bộ kinh có tên là Ca Chiên Diên Kinh để nói về ý nghĩa lìa cả hai đường Có và Không mà phá trừ tập khí ngã mạn.

Bấy giờ Đức Phật gọi ông Ca Chiên Diên bảo:

- Ca Chiên Diên! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Ông Ca Chiên Diên thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước kia con đã từng nghe Phật nói pháp tinh yếu cho các Tỳ Kheo. Hôm nọ con cùng các Tỳ Kheo hội hợp lại, con bèn trùng tuyên diễn nói lại về ý nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt…Lúc bấy giờ trưởng giả Duy Ma Cật đến, nói với con rằng:

- Thưa ngài Ca Chiên Diên! Ngài không nên dùng tâm hành sanh diệt mà nói pháp thật tướng. Thưa ngài, các pháp không sanh không diệt, đó là nghĩa vô thường. Ngũ uẩn rỗng không, không có điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ. Các pháp rốt ráo không, không có nguồn gốc, đó là nghĩa không. Ngã và vô ngã không hai, đó mới là nghĩa vô ngã. Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch diệt.

Người học Phật thì phải nhìn vạn pháp qua hai mặt. Pháp thì có pháp tánhpháp tướng. Nếu con người chưa ngộ được thật tướng của vạn vật trong vủ trụ thì chỉ nói được pháp tướng. Còn thấu nhập được thật tướng thì mới nói được pháp tánh. Mà thật tướng chính là vô tướng.

Chúng sinh sống trong thế giới Ta bà nầy tức là đang bơi trong biển khổ cho nên Đức Thế Tôn muốn đem Phật pháp để giúp chúng sinh nương theo đó mà giải thoát. Vì thế Phật mới nói thuyết vô thường, vô ngã, khổ, không và diệt phiền não để chứng đắc Niết bàn. Vì đây là lời của Phật nên tôn giả Ca Chiên Diên mới đem những ý chính mà diễn lại cho các Tỳ Kheo nghe thì lời nói của tôn giả là đúng. Nói đúng mà tại sao lại bị quở? Trưởng giả Duy Ma Cật không những chỉ trích tôn giả Ca Chiên Diên mà còn chỉ trích tất cả các vị đại đệ tử của Phật không phải vì họ nói sai hay tu hành sai mà họ không đi đúng Phật đạo. Con đường để đạt đến Phật quả viên thành bắt đầu từ nhân thừa, thiên thừa, tiểu thừa, duyên giác thừacuối cùng tiến đến đại thừa viên giáo để đến Đẳng giácthành Phật. Bất cứ ai trong thế gian nầy nếu muốn hoàn thành Phật đạo đều phải đi theo con đường của các vị A La Hán cả, nhưng lý do họ bị khiển trách là vì họ tự mãn ở địa vị của hàng Thanh văn mà không tiếp tục tinh tấn tu hành từ Thanh văn lên Bồ-tát hay từ Tiểu thừa sang Đại thừa. Tuy đã thoát khỏi sinh tử luân hồi nhưng nếu không tiến tu theo Bồ-tát đạo thì trí tuệ không phát sinh, vô minh chưa trừ diệt thì làm sao thành Phật được. Do đó ông Duy Ma Cật mới đại diện cho Phật chỉ bày con đường sáng để khai thị cho họ theo đó mà tiếp tục tu hành để viên thành Phật đạo. Đây là chỉ trích trong tinh thần xây dựng vậy.

Khi Đức Phật thuyết pháp dạy các Tỳ Kheo thì Ngài thuyết huyễn pháp, độ huyễn nhân để chứng huyễn quả. Nhưng tôn giả Ca Chiên Diên nghe Phật nói huyễn lại tưởng là thật. Phật dùng phương tiện lại tưởng là cứu cánh cho nên tôn giả mới đem những lời Phật mà dạy cho các Tỳ Kheo.

Đứng về phương diện pháp tướng mà nói thì vạn pháp là thật có cho nên thấy vạn phápvô thường. Cũng như thấy thân nầy là thật nên phải chịu sinh lão bịnh tử. Thấy cái ta là thật có nên thấy cái ta là vô ngã. Muốn ngã và ngã sở được trường tồn vĩnh cửu nên thấy vạn pháp giai không. Thấy phiền não là thật cho nên mới mong cầu tịch diệt Niết bàn. Tóm lại vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt đều là pháp tướng tức là tướng sinh diệt của thế gian. Vì thế tôn giả Ca Chiên Diên càng diễn giải, biện luận cho các Tỳ Kheo thì càng chứng tỏ tâm ông bị dính mắc càng nhiều. Do đó trưởng giả Duy Ma Cật mới đến bảo ông chớ đem tâm hạnh sinh diệt tức là pháp tướng mà nói pháp Thật Tướng. Tại sao? Bởi vì tâm hạnh sinh diệt là pháp thế gian, là tương đối thì làm sao diễn tả được pháp Thật Tướng tức là tuyệt đối, là pháp xuất thế gian.

Đứng về phương diện tuyệt đối mà nói thì các pháp không sinh mà cũng không diệt, không còn đối đãi tức là Bất nhị. Ông Ca Chiên Diên nói các pháp có sinh có diệt tức là vô thường còn ông Duy Ma Cật nói các pháp không sinh không diệt mới là vô thường. Đây là hai tư tưởng hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy ai đúng ai sai? Thật ra cả hai cùng đúng. Tại sao lại có chuyện ngược với lý vô nhị thị như vậy? Nếu đứng về pháp Tướng tức là pháp sinh diệt tương đối của thế gian thì ông Ca Chiên Diên nói đúng. Còn nếu dựa vào pháp Tánh bất sinh bất diệt tức là Chân Lý Tuyệt đối thì ông Duy Ma Cật đúng vì trong Chân Không thì làm gì có sinh có diệt, có tăng có giảm. Nhưng nếu nói không sanh không diệt thì tại sao nói vô thường như các pháp sinh diệt? Đứng về pháp Tánh thì không sanh không diệt nhưng nhờ có duyên hợp mới thành Tướng. Mà đã là duyên hợp thì có sanh có diệt tức là vô thường. Đây chính là bất biếntùy duyên. Thí dụ như cái nhà của chúng ta. Vì cái nhà là do duyên hợp của gạch, ngói, cây, xi măng…nên cái nhà không có tự tánh tức là Không. Vì cái nhà là do duyên hợp mà thành nên có sanh có diệt tức là vô thường nhưng tự tánh của cái nhà là Không thì làm gì có sanh có diệt. Do đó cùng một đối tượng mà có hai bản thểhữu vivô vi hay tương đốituyệt đối. Hữu vi là Tướng và vô vi là Thể. Như vậy nói vô thường là chỉ cho giả tướng duyên hợp. Còn pháp Tánh thì không sanh không diệt. Cho nên cái không sanh không diệt đó không thể rời cái Tướng sanh diệt được. Vì thế Tâm Kinh mới có câu:”Sắc chẳng khác Không” là như vậy. Tuy tôn giả Ca Chiên Diên nói không sai, nhưng sự hiểu biết về sự sinh tồn của nhân sinh vủ trụ chỉ có một bên là pháp Tướng tức là pháp sinh diệt cho nên ông Duy Ma Cật muốn đem chân lý của Thật Tướng tuyệt đốigiảng giải để khai thị cho tôn giả thấy rằng tuy vạn pháp có tướng sinh diệt tức là vô thường nhưng Bản Thể Chân NhưThật Tướng thì không có hình tướng nên không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, không lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ sống chết đổi thay nên được gọi là Chơn Thường. Vì thế ông Ca Chiên Diên tuy là nói không sai nhưng chưa được rốt ráo, thấu triệt mà thôi.

Ngũ uẩn rỗng không, không có điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ.

Năm uẩn ở đây chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong thế gian nầy con người còn thấy khổ, vui là vì còn cảm thọ những duyên trần từ bên ngoài. Khi gặp cảnh thuận duyên thì tâm vui mà gặp cảnh nghịch lòng thì phát sinh tâm sân hận. Tâm Kinh dạy rằng trong Bản Thể Chân Như thì ngũ uẩn là Không. Mà ngũ uẩn đã là Không thì làm gì có cảm thọ những duyên trần bên ngoài. Cảm thọ cũng Không thì vui khổ cũng chẳng còn. Vì thế ông Duy Ma Cật nói nghĩa khổ chính là chẳng khổ chẳng vui, là chân lý tuyệt đối vậy.

Trong Kinh Hoa Nghiêm có dạy rằng:”Vạn pháp duy tâm tạo” cho nên khổ vui cũng bởi tự lòng ta. Cùng một trái ớt cay mà có người thích ăn còn người khác lại không thích. Nếu bắt người Mỹ ăn cơm hoài như người Việt thì làm sao họ vui hay bắt người Việt ăn bánh mì hoài thì họ sẽ kêu khổ. Vậy vui khổ là không thật Có mà nó chỉ xuất hiện làm cho con người thêm điêu đứng khi chúng ta chạy theo gió lục trần. Khi con người còn chấp có hai bên là khổ vui nên tâm mới khổ vì muốn phá khổ tìm vui. Khi đã ngộ được Bản Thể Tuyệt Đối thì không còn chấp có khổ vui mà chỉ thấy rõ tất cả chỉ là một cái bất biến. Trong cuộc đời có ai lại không đối diện với cảnh trái ý nghịch lòng. Nếu người không hiểu đạo khi gặp nghịch duyên thì họ than trời, trách đất chẳng những làm khổ cho mình mà còn làm khổ cho mọi người chung quanh. Còn người có trí tuệ sáng suốt thì cũng cảnh nghịch duyên đó mà họ bình tĩnh lắng lòng để tìm nguyên nhân nào tạo ra nghịch cảnh mà tìm phương đối trị để vượt qua cảnh trái ý nghịch lòng. Cái vui khổ mà con người thọ nhận trong đời nầy chẳng qua là cái quả của những cái nhân tốt xấu mà họ đã tác tạo từ kiếp trước mà thôi. Tự tác hoàn tự thọ tức là ta làm thì ta chịu có gì phải phàn nàn. Chúng ta không có túc mạng thông thì không thể nào biết được mình đã làm những gì trong tiền kiếp. Nhưng điều quan trọng mà con người cần phải chú ý là ngay trong đời hiện tại cũng như trong tương lai đừng gây ra nghiệp xấu vì đây chính là những duyên xấu sẽ kết tập với những nghiệp bất thiện trong quá khứ mà tạo thành cái ác quả để hành hạ chúng ta. Nhân mà không có duyên thì không bao giờ thành quả. Do đó không chỉ riêng có Bồ-tát mới thấy câu:”Bồ-tát sợ nhân chúng sinh sợ quả” là chân lý mà tất cả chúng sinh cũng như Bồ-tát cùng sợ nhân cả.

Các pháp rốt ráo không, không có nguồn gốc, đó là nghĩa không.

Không có một hiện tượng tinh thần hay vật chất nào trong thế gian nầy có thể tự nó sinh tồn mà không cần đến những trợ duyên khác. Vì do sự kết hợp của nhiều nhân duyên nên tất cả vạn pháp chính nó không có tự tánh, không có chủ thể hay vô ngã tức là Không. Không ở đây có nghĩa là Chơn Không Diệu Tánh tức là từ vô thỉ nó như vậy và cho đến vô chung nó cũng thế, không tăng không giảm nên nói không nguồn không gốc là như vậy. Cái Không nầy mới chính thậtnghĩa không chớ không phải cái không đối với cái có của hàng Thanh văn.

Ngã và vô ngã không hai, đó mới là nghĩa vô ngã.

Ngã là thấy mình thật, vạn vật cũng thật. Còn vô ngã thì mình là huyễn và vạn vật, chúng sinh cũng huyễn. Khi còn thấy có ngã và vô ngã là thấy có bên nầy bên kia, là còn phân biệt nhị nguyên tức là tâm không bình đẳng. Đây là lối nói ngược để phá trừ bệnh chấp tướng, nhưng thật ra trong vô thường có Chơn thường và trong vô ngã có Chơn ngã. Đây mới chính là Trung đạo. Thí dụ như ngày xưa chúng ta chưa biết đạo thì lúc nào cũng chạy theo bản ngã, làm việc gì cũng vì mình, ai nói nặng một chút là giận là hờn, ai tâng bốc là kiêu căng, tự phụ cũng vì lầm tưởng thân nầy là thật, cái Ta là thật. Khi đã biết thân nầy là giả, thế gian vủ trụ là giả thì từ cái bản ngã mê lầm quay về với cái tự tánh thanh tịnh mà sống với tinh thần vô ngã từ bi của nhà Phật. Vậy ngã và vô ngã vốn ở trong ta. Nếu chạy theo lục dục thất tình là ngã còn sống với tự tánh bản nhiên thanh tịnhvô ngã. Tuy hai nhưng mà một tức là bất nhị thì đây mới là nghĩa vô ngã vậy.

Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch diệt.

Giáo lý Tiểu thừa dựa trên pháp hữu vi mà thấy các pháp có sinh có diệt nên tâm bất định mà sinh ra cái khổ. Do đó họ cố tu, xa lìa cái sinh diệt cho tâm được an định mà tìm cái vui tức là sự tịch diệt của Niết bàn. Ngược lại tư tưởng Đại thừa thì cho rằng các pháp từ nguyên thủy đến nay vẫn như thế, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không tăng không giảm. Mà các pháp vốn không sanh thì làm gì có diệt! Đây chính là Pháp Tánh của các pháp tức là Không. Vì là Chơn Không Diệu Tánh không hình không sắc, không kích thước, không nặng nhẹ thì làm gì có thể nghĩ bàn hay dùng văn tự để diễn bày được.

Như thế khi còn mê lầm vọng tưởng điên đảo thì còn thấy các pháp có sinh có diệt, đến khi trí tuệ bừng sáng để nhận thấy Thể Tánh bất sinh bất diệt của các pháp tức là thấy được tính Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thì vọng tưởng điên đảo không còn và tâm hằng vắng lặng thanh tịnh thì Niết bàn còn dùng vào đâu mà cầu mong chứng với đắc thì đây mới chính là nghĩa Tịch Diệt vậy.

Như vậy:

- Nếu thấy thân là vô thường thì phải quay về sống với pháp tánh bất sinh bất diệt để tới chỗ Chơn Thường.

- Biết vạn pháp trong thế gian vủ trụ là vô ngã thì cố gắng suy tư quán chiếu, tĩnh lựquay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì sẽ thấy Chơn Ngã.

- Nếu để tâm chạy theo vọng trần thì sẽ cảm thọ cái vui hay cái buồn, nhưng nếu thấy rằng ngũ uẩn là Không thì sẽ chặn được gió lục trần. Không có gió lục trần thì làm gì còn cảm thọ cho nên buồn vui cũng vì thế mà tan biến.

- Nếu thấy thế gian sinh diệt thì tâm mới có khổ bây giờ quay về với pháp tánh thì sẽ không còn sinh diệt. Không sinh diệt thì khổ không còn tức là Tịch Diệt.

Tóm lại theo tư tưởng đại thừa thì ngay trong vô thường mà thấy được Chơn Thường. Ngay trong vô ngã mà thấy được Chơn Ngã. Trong cái khổ mà thấy Chơn Lạc và trong thế giới uế độ nầy mà vẫn thấy được Niết bàn thanh tịnh tức là Chơn Tịnh vậy. Vì thế với tuệ nhãn của Bồ-tát thì vạn pháp là Chơn Thường, Chơn Ngã, Chơn Lạc và Chơn Tịnh hay là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Nói một cách khác, tất cả vạn pháp trong thế gian vủ trụ nầy thì Tướng là giả huyễn, là sinh diệt. Thể thì lặng lẽ, là Chơn Không Diệu Tánh, là Không. Còn Dụng thì phát sinh từ tâm để tạo thành muôn sai vạn biệt. Đối với người tu theo đại thừa thì cho dù tâm có phát sinh trăm ngàn ý niệm, chánh có tà có, thiện có ác có…nhưng con người làm chủ tâm tức là kiềm chế ý niệm chớ không chạy theo nó. Niệm vừa dấy lên thì tự nhiên nó lắng xuống, biến đi. Vô niệm tức là Chơn tâm, là Phật tánh, là hạnh phúc vĩnh hằng trong tất cả chúng ta.

Hằng ngày chúng ta đi chùa, ngồi thiền, kinh hành, tụng kinh, niệm Phật mà người chửi còn giận, vật đẹp muốn lấy, tranh công đoạt chức thì vẫn làm nô lệ cho bản ngã. Muốn đạt đến ngã Không thì phải thấy vạn phápvô thường, vô ngã, Không và khổ như cái thấy biết của các vị A La Hán. Sau cùng phá luôn chấp pháp tức là pháp Không để được cái nhìn cái biết của Bồ-tát. Đó là thế gianhuyễn hóa, nhưng Bản Thể thì thường hằng bất biến, là Chơn Không Diệu Tánh nên lúc nào cũng thanh tịnh. Con người biết quay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì ở đâu và lúc nào cũng có tịch diệt Niết bàn.

Tôn giả Ca Chiên Diên nói tiếp:

Sau khi ông Duy Ma Cật diễn nói về những pháp yếu đó, các Tỳ Kheo tâm được cởi mở. Vì vậy, hôm nay con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Các Tỳ Kheo khi đã được nghe Chân lý tuyệt đối, lãnh hội được pháp Tánh thanh tịnh thì như người ngũ mê sực tỉnh, không còn thấy mình bị trói buộc và tâm rất hoan hỷ. Ý của ông Duy Ma Cật trong đoạn kinh nầy là đứng lấy tâm sinh diệt tương đối của thế gianluận bàn về pháp Tánh tức là Chơn Không Diệu Tánh. Vì nó là Chơn Không, là rỗng lặng nên không thể dùng ngôn ngữ, văn tự để diễn bày. Nhưng nếu có quán chiếu, có thực hành thì sẽ ngộ Chân lý và nhập Thể Tánh thì lúc đó tự mình sẽ có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188714)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43811)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25055)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30809)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21027)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38757)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27375)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31090)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33098)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23966)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16971)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20507)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31908)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18084)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20550)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27019)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18049)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25554)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26637)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36586)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28055)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27285)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30328)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37105)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37253)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23866)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32279)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55141)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36912)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27567)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28304)
Công Phu Khuya
(Xem: 37943)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25401)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24132)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11229)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14508)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10625)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant