Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả Ca Chiên Diên

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9142)
Tôn giả Ca Chiên Diên

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn


 Tôn giả Ca Chiên Diên (Katyayana):
Thuyết Pháp Tinh Yếu.

Tôn giả Ca Chiên Diên là con của một vị quốc sư của nước A Bàn Đề thuộc miền Nam nước Ấn Độ. Tiên A Tư Đà vị thần thông bác học của Ấn Độ thời bấy giờ, người đã đến xem tướng cho Thái tử Tất Đạt Đa khi Ngài mới đản sanh chính là cậu ruột và cũng là sư phụ đầu tiên của tôn giả. Sau tôn giả quy y theo Phật trở thành A La Hán và trong số mười đại đệ tử của Phật thì tôn giả nổi tiếng là đệ nhất nghị luận vì ngài có tài biện luậnlời nói diệu dàng làm mọi người kính phục. Ngoài tài biện thuyết, tôn giả còn làm ra bộ Thi Thiết Túc Luận gồm có 18 ngàn câu kệ và một bộ kinh có tên là Ca Chiên Diên Kinh để nói về ý nghĩa lìa cả hai đường Có và Không mà phá trừ tập khí ngã mạn.

Bấy giờ Đức Phật gọi ông Ca Chiên Diên bảo:

- Ca Chiên Diên! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Ông Ca Chiên Diên thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước kia con đã từng nghe Phật nói pháp tinh yếu cho các Tỳ Kheo. Hôm nọ con cùng các Tỳ Kheo hội hợp lại, con bèn trùng tuyên diễn nói lại về ý nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt…Lúc bấy giờ trưởng giả Duy Ma Cật đến, nói với con rằng:

- Thưa ngài Ca Chiên Diên! Ngài không nên dùng tâm hành sanh diệt mà nói pháp thật tướng. Thưa ngài, các pháp không sanh không diệt, đó là nghĩa vô thường. Ngũ uẩn rỗng không, không có điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ. Các pháp rốt ráo không, không có nguồn gốc, đó là nghĩa không. Ngã và vô ngã không hai, đó mới là nghĩa vô ngã. Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch diệt.

Người học Phật thì phải nhìn vạn pháp qua hai mặt. Pháp thì có pháp tánhpháp tướng. Nếu con người chưa ngộ được thật tướng của vạn vật trong vủ trụ thì chỉ nói được pháp tướng. Còn thấu nhập được thật tướng thì mới nói được pháp tánh. Mà thật tướng chính là vô tướng.

Chúng sinh sống trong thế giới Ta bà nầy tức là đang bơi trong biển khổ cho nên Đức Thế Tôn muốn đem Phật pháp để giúp chúng sinh nương theo đó mà giải thoát. Vì thế Phật mới nói thuyết vô thường, vô ngã, khổ, không và diệt phiền não để chứng đắc Niết bàn. Vì đây là lời của Phật nên tôn giả Ca Chiên Diên mới đem những ý chính mà diễn lại cho các Tỳ Kheo nghe thì lời nói của tôn giả là đúng. Nói đúng mà tại sao lại bị quở? Trưởng giả Duy Ma Cật không những chỉ trích tôn giả Ca Chiên Diên mà còn chỉ trích tất cả các vị đại đệ tử của Phật không phải vì họ nói sai hay tu hành sai mà họ không đi đúng Phật đạo. Con đường để đạt đến Phật quả viên thành bắt đầu từ nhân thừa, thiên thừa, tiểu thừa, duyên giác thừacuối cùng tiến đến đại thừa viên giáo để đến Đẳng giácthành Phật. Bất cứ ai trong thế gian nầy nếu muốn hoàn thành Phật đạo đều phải đi theo con đường của các vị A La Hán cả, nhưng lý do họ bị khiển trách là vì họ tự mãn ở địa vị của hàng Thanh văn mà không tiếp tục tinh tấn tu hành từ Thanh văn lên Bồ-tát hay từ Tiểu thừa sang Đại thừa. Tuy đã thoát khỏi sinh tử luân hồi nhưng nếu không tiến tu theo Bồ-tát đạo thì trí tuệ không phát sinh, vô minh chưa trừ diệt thì làm sao thành Phật được. Do đó ông Duy Ma Cật mới đại diện cho Phật chỉ bày con đường sáng để khai thị cho họ theo đó mà tiếp tục tu hành để viên thành Phật đạo. Đây là chỉ trích trong tinh thần xây dựng vậy.

Khi Đức Phật thuyết pháp dạy các Tỳ Kheo thì Ngài thuyết huyễn pháp, độ huyễn nhân để chứng huyễn quả. Nhưng tôn giả Ca Chiên Diên nghe Phật nói huyễn lại tưởng là thật. Phật dùng phương tiện lại tưởng là cứu cánh cho nên tôn giả mới đem những lời Phật mà dạy cho các Tỳ Kheo.

Đứng về phương diện pháp tướng mà nói thì vạn pháp là thật có cho nên thấy vạn phápvô thường. Cũng như thấy thân nầy là thật nên phải chịu sinh lão bịnh tử. Thấy cái ta là thật có nên thấy cái ta là vô ngã. Muốn ngã và ngã sở được trường tồn vĩnh cửu nên thấy vạn pháp giai không. Thấy phiền não là thật cho nên mới mong cầu tịch diệt Niết bàn. Tóm lại vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt đều là pháp tướng tức là tướng sinh diệt của thế gian. Vì thế tôn giả Ca Chiên Diên càng diễn giải, biện luận cho các Tỳ Kheo thì càng chứng tỏ tâm ông bị dính mắc càng nhiều. Do đó trưởng giả Duy Ma Cật mới đến bảo ông chớ đem tâm hạnh sinh diệt tức là pháp tướng mà nói pháp Thật Tướng. Tại sao? Bởi vì tâm hạnh sinh diệt là pháp thế gian, là tương đối thì làm sao diễn tả được pháp Thật Tướng tức là tuyệt đối, là pháp xuất thế gian.

Đứng về phương diện tuyệt đối mà nói thì các pháp không sinh mà cũng không diệt, không còn đối đãi tức là Bất nhị. Ông Ca Chiên Diên nói các pháp có sinh có diệt tức là vô thường còn ông Duy Ma Cật nói các pháp không sinh không diệt mới là vô thường. Đây là hai tư tưởng hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy ai đúng ai sai? Thật ra cả hai cùng đúng. Tại sao lại có chuyện ngược với lý vô nhị thị như vậy? Nếu đứng về pháp Tướng tức là pháp sinh diệt tương đối của thế gian thì ông Ca Chiên Diên nói đúng. Còn nếu dựa vào pháp Tánh bất sinh bất diệt tức là Chân Lý Tuyệt đối thì ông Duy Ma Cật đúng vì trong Chân Không thì làm gì có sinh có diệt, có tăng có giảm. Nhưng nếu nói không sanh không diệt thì tại sao nói vô thường như các pháp sinh diệt? Đứng về pháp Tánh thì không sanh không diệt nhưng nhờ có duyên hợp mới thành Tướng. Mà đã là duyên hợp thì có sanh có diệt tức là vô thường. Đây chính là bất biếntùy duyên. Thí dụ như cái nhà của chúng ta. Vì cái nhà là do duyên hợp của gạch, ngói, cây, xi măng…nên cái nhà không có tự tánh tức là Không. Vì cái nhà là do duyên hợp mà thành nên có sanh có diệt tức là vô thường nhưng tự tánh của cái nhà là Không thì làm gì có sanh có diệt. Do đó cùng một đối tượng mà có hai bản thểhữu vivô vi hay tương đốituyệt đối. Hữu vi là Tướng và vô vi là Thể. Như vậy nói vô thường là chỉ cho giả tướng duyên hợp. Còn pháp Tánh thì không sanh không diệt. Cho nên cái không sanh không diệt đó không thể rời cái Tướng sanh diệt được. Vì thế Tâm Kinh mới có câu:”Sắc chẳng khác Không” là như vậy. Tuy tôn giả Ca Chiên Diên nói không sai, nhưng sự hiểu biết về sự sinh tồn của nhân sinh vủ trụ chỉ có một bên là pháp Tướng tức là pháp sinh diệt cho nên ông Duy Ma Cật muốn đem chân lý của Thật Tướng tuyệt đốigiảng giải để khai thị cho tôn giả thấy rằng tuy vạn pháp có tướng sinh diệt tức là vô thường nhưng Bản Thể Chân NhưThật Tướng thì không có hình tướng nên không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, không lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ sống chết đổi thay nên được gọi là Chơn Thường. Vì thế ông Ca Chiên Diên tuy là nói không sai nhưng chưa được rốt ráo, thấu triệt mà thôi.

Ngũ uẩn rỗng không, không có điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ.

Năm uẩn ở đây chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong thế gian nầy con người còn thấy khổ, vui là vì còn cảm thọ những duyên trần từ bên ngoài. Khi gặp cảnh thuận duyên thì tâm vui mà gặp cảnh nghịch lòng thì phát sinh tâm sân hận. Tâm Kinh dạy rằng trong Bản Thể Chân Như thì ngũ uẩn là Không. Mà ngũ uẩn đã là Không thì làm gì có cảm thọ những duyên trần bên ngoài. Cảm thọ cũng Không thì vui khổ cũng chẳng còn. Vì thế ông Duy Ma Cật nói nghĩa khổ chính là chẳng khổ chẳng vui, là chân lý tuyệt đối vậy.

Trong Kinh Hoa Nghiêm có dạy rằng:”Vạn pháp duy tâm tạo” cho nên khổ vui cũng bởi tự lòng ta. Cùng một trái ớt cay mà có người thích ăn còn người khác lại không thích. Nếu bắt người Mỹ ăn cơm hoài như người Việt thì làm sao họ vui hay bắt người Việt ăn bánh mì hoài thì họ sẽ kêu khổ. Vậy vui khổ là không thật Có mà nó chỉ xuất hiện làm cho con người thêm điêu đứng khi chúng ta chạy theo gió lục trần. Khi con người còn chấp có hai bên là khổ vui nên tâm mới khổ vì muốn phá khổ tìm vui. Khi đã ngộ được Bản Thể Tuyệt Đối thì không còn chấp có khổ vui mà chỉ thấy rõ tất cả chỉ là một cái bất biến. Trong cuộc đời có ai lại không đối diện với cảnh trái ý nghịch lòng. Nếu người không hiểu đạo khi gặp nghịch duyên thì họ than trời, trách đất chẳng những làm khổ cho mình mà còn làm khổ cho mọi người chung quanh. Còn người có trí tuệ sáng suốt thì cũng cảnh nghịch duyên đó mà họ bình tĩnh lắng lòng để tìm nguyên nhân nào tạo ra nghịch cảnh mà tìm phương đối trị để vượt qua cảnh trái ý nghịch lòng. Cái vui khổ mà con người thọ nhận trong đời nầy chẳng qua là cái quả của những cái nhân tốt xấu mà họ đã tác tạo từ kiếp trước mà thôi. Tự tác hoàn tự thọ tức là ta làm thì ta chịu có gì phải phàn nàn. Chúng ta không có túc mạng thông thì không thể nào biết được mình đã làm những gì trong tiền kiếp. Nhưng điều quan trọng mà con người cần phải chú ý là ngay trong đời hiện tại cũng như trong tương lai đừng gây ra nghiệp xấu vì đây chính là những duyên xấu sẽ kết tập với những nghiệp bất thiện trong quá khứ mà tạo thành cái ác quả để hành hạ chúng ta. Nhân mà không có duyên thì không bao giờ thành quả. Do đó không chỉ riêng có Bồ-tát mới thấy câu:”Bồ-tát sợ nhân chúng sinh sợ quả” là chân lý mà tất cả chúng sinh cũng như Bồ-tát cùng sợ nhân cả.

Các pháp rốt ráo không, không có nguồn gốc, đó là nghĩa không.

Không có một hiện tượng tinh thần hay vật chất nào trong thế gian nầy có thể tự nó sinh tồn mà không cần đến những trợ duyên khác. Vì do sự kết hợp của nhiều nhân duyên nên tất cả vạn pháp chính nó không có tự tánh, không có chủ thể hay vô ngã tức là Không. Không ở đây có nghĩa là Chơn Không Diệu Tánh tức là từ vô thỉ nó như vậy và cho đến vô chung nó cũng thế, không tăng không giảm nên nói không nguồn không gốc là như vậy. Cái Không nầy mới chính thậtnghĩa không chớ không phải cái không đối với cái có của hàng Thanh văn.

Ngã và vô ngã không hai, đó mới là nghĩa vô ngã.

Ngã là thấy mình thật, vạn vật cũng thật. Còn vô ngã thì mình là huyễn và vạn vật, chúng sinh cũng huyễn. Khi còn thấy có ngã và vô ngã là thấy có bên nầy bên kia, là còn phân biệt nhị nguyên tức là tâm không bình đẳng. Đây là lối nói ngược để phá trừ bệnh chấp tướng, nhưng thật ra trong vô thường có Chơn thường và trong vô ngã có Chơn ngã. Đây mới chính là Trung đạo. Thí dụ như ngày xưa chúng ta chưa biết đạo thì lúc nào cũng chạy theo bản ngã, làm việc gì cũng vì mình, ai nói nặng một chút là giận là hờn, ai tâng bốc là kiêu căng, tự phụ cũng vì lầm tưởng thân nầy là thật, cái Ta là thật. Khi đã biết thân nầy là giả, thế gian vủ trụ là giả thì từ cái bản ngã mê lầm quay về với cái tự tánh thanh tịnh mà sống với tinh thần vô ngã từ bi của nhà Phật. Vậy ngã và vô ngã vốn ở trong ta. Nếu chạy theo lục dục thất tình là ngã còn sống với tự tánh bản nhiên thanh tịnhvô ngã. Tuy hai nhưng mà một tức là bất nhị thì đây mới là nghĩa vô ngã vậy.

Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch diệt.

Giáo lý Tiểu thừa dựa trên pháp hữu vi mà thấy các pháp có sinh có diệt nên tâm bất định mà sinh ra cái khổ. Do đó họ cố tu, xa lìa cái sinh diệt cho tâm được an định mà tìm cái vui tức là sự tịch diệt của Niết bàn. Ngược lại tư tưởng Đại thừa thì cho rằng các pháp từ nguyên thủy đến nay vẫn như thế, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không tăng không giảm. Mà các pháp vốn không sanh thì làm gì có diệt! Đây chính là Pháp Tánh của các pháp tức là Không. Vì là Chơn Không Diệu Tánh không hình không sắc, không kích thước, không nặng nhẹ thì làm gì có thể nghĩ bàn hay dùng văn tự để diễn bày được.

Như thế khi còn mê lầm vọng tưởng điên đảo thì còn thấy các pháp có sinh có diệt, đến khi trí tuệ bừng sáng để nhận thấy Thể Tánh bất sinh bất diệt của các pháp tức là thấy được tính Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thì vọng tưởng điên đảo không còn và tâm hằng vắng lặng thanh tịnh thì Niết bàn còn dùng vào đâu mà cầu mong chứng với đắc thì đây mới chính là nghĩa Tịch Diệt vậy.

Như vậy:

- Nếu thấy thân là vô thường thì phải quay về sống với pháp tánh bất sinh bất diệt để tới chỗ Chơn Thường.

- Biết vạn pháp trong thế gian vủ trụ là vô ngã thì cố gắng suy tư quán chiếu, tĩnh lựquay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì sẽ thấy Chơn Ngã.

- Nếu để tâm chạy theo vọng trần thì sẽ cảm thọ cái vui hay cái buồn, nhưng nếu thấy rằng ngũ uẩn là Không thì sẽ chặn được gió lục trần. Không có gió lục trần thì làm gì còn cảm thọ cho nên buồn vui cũng vì thế mà tan biến.

- Nếu thấy thế gian sinh diệt thì tâm mới có khổ bây giờ quay về với pháp tánh thì sẽ không còn sinh diệt. Không sinh diệt thì khổ không còn tức là Tịch Diệt.

Tóm lại theo tư tưởng đại thừa thì ngay trong vô thường mà thấy được Chơn Thường. Ngay trong vô ngã mà thấy được Chơn Ngã. Trong cái khổ mà thấy Chơn Lạc và trong thế giới uế độ nầy mà vẫn thấy được Niết bàn thanh tịnh tức là Chơn Tịnh vậy. Vì thế với tuệ nhãn của Bồ-tát thì vạn pháp là Chơn Thường, Chơn Ngã, Chơn Lạc và Chơn Tịnh hay là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Nói một cách khác, tất cả vạn pháp trong thế gian vủ trụ nầy thì Tướng là giả huyễn, là sinh diệt. Thể thì lặng lẽ, là Chơn Không Diệu Tánh, là Không. Còn Dụng thì phát sinh từ tâm để tạo thành muôn sai vạn biệt. Đối với người tu theo đại thừa thì cho dù tâm có phát sinh trăm ngàn ý niệm, chánh có tà có, thiện có ác có…nhưng con người làm chủ tâm tức là kiềm chế ý niệm chớ không chạy theo nó. Niệm vừa dấy lên thì tự nhiên nó lắng xuống, biến đi. Vô niệm tức là Chơn tâm, là Phật tánh, là hạnh phúc vĩnh hằng trong tất cả chúng ta.

Hằng ngày chúng ta đi chùa, ngồi thiền, kinh hành, tụng kinh, niệm Phật mà người chửi còn giận, vật đẹp muốn lấy, tranh công đoạt chức thì vẫn làm nô lệ cho bản ngã. Muốn đạt đến ngã Không thì phải thấy vạn phápvô thường, vô ngã, Không và khổ như cái thấy biết của các vị A La Hán. Sau cùng phá luôn chấp pháp tức là pháp Không để được cái nhìn cái biết của Bồ-tát. Đó là thế gianhuyễn hóa, nhưng Bản Thể thì thường hằng bất biến, là Chơn Không Diệu Tánh nên lúc nào cũng thanh tịnh. Con người biết quay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì ở đâu và lúc nào cũng có tịch diệt Niết bàn.

Tôn giả Ca Chiên Diên nói tiếp:

Sau khi ông Duy Ma Cật diễn nói về những pháp yếu đó, các Tỳ Kheo tâm được cởi mở. Vì vậy, hôm nay con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Các Tỳ Kheo khi đã được nghe Chân lý tuyệt đối, lãnh hội được pháp Tánh thanh tịnh thì như người ngũ mê sực tỉnh, không còn thấy mình bị trói buộc và tâm rất hoan hỷ. Ý của ông Duy Ma Cật trong đoạn kinh nầy là đứng lấy tâm sinh diệt tương đối của thế gianluận bàn về pháp Tánh tức là Chơn Không Diệu Tánh. Vì nó là Chơn Không, là rỗng lặng nên không thể dùng ngôn ngữ, văn tự để diễn bày. Nhưng nếu có quán chiếu, có thực hành thì sẽ ngộ Chân lý và nhập Thể Tánh thì lúc đó tự mình sẽ có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19733)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23987)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41239)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19718)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24030)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21754)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27517)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26582)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29337)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25799)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31351)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38608)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21463)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44295)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29850)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42244)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22151)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45800)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32141)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23984)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24411)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29296)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33942)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27701)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32172)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21093)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28875)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21615)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21456)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19534)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19491)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19849)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19279)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29218)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20637)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28315)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23663)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33216)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31869)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21411)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39660)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21582)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19399)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26423)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24846)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22411)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29159)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22581)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23551)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35359)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24565)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant