Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả Ca Chiên Diên

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9139)
Tôn giả Ca Chiên Diên

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn


 Tôn giả Ca Chiên Diên (Katyayana):
Thuyết Pháp Tinh Yếu.

Tôn giả Ca Chiên Diên là con của một vị quốc sư của nước A Bàn Đề thuộc miền Nam nước Ấn Độ. Tiên A Tư Đà vị thần thông bác học của Ấn Độ thời bấy giờ, người đã đến xem tướng cho Thái tử Tất Đạt Đa khi Ngài mới đản sanh chính là cậu ruột và cũng là sư phụ đầu tiên của tôn giả. Sau tôn giả quy y theo Phật trở thành A La Hán và trong số mười đại đệ tử của Phật thì tôn giả nổi tiếng là đệ nhất nghị luận vì ngài có tài biện luậnlời nói diệu dàng làm mọi người kính phục. Ngoài tài biện thuyết, tôn giả còn làm ra bộ Thi Thiết Túc Luận gồm có 18 ngàn câu kệ và một bộ kinh có tên là Ca Chiên Diên Kinh để nói về ý nghĩa lìa cả hai đường Có và Không mà phá trừ tập khí ngã mạn.

Bấy giờ Đức Phật gọi ông Ca Chiên Diên bảo:

- Ca Chiên Diên! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Ông Ca Chiên Diên thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước kia con đã từng nghe Phật nói pháp tinh yếu cho các Tỳ Kheo. Hôm nọ con cùng các Tỳ Kheo hội hợp lại, con bèn trùng tuyên diễn nói lại về ý nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt…Lúc bấy giờ trưởng giả Duy Ma Cật đến, nói với con rằng:

- Thưa ngài Ca Chiên Diên! Ngài không nên dùng tâm hành sanh diệt mà nói pháp thật tướng. Thưa ngài, các pháp không sanh không diệt, đó là nghĩa vô thường. Ngũ uẩn rỗng không, không có điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ. Các pháp rốt ráo không, không có nguồn gốc, đó là nghĩa không. Ngã và vô ngã không hai, đó mới là nghĩa vô ngã. Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch diệt.

Người học Phật thì phải nhìn vạn pháp qua hai mặt. Pháp thì có pháp tánhpháp tướng. Nếu con người chưa ngộ được thật tướng của vạn vật trong vủ trụ thì chỉ nói được pháp tướng. Còn thấu nhập được thật tướng thì mới nói được pháp tánh. Mà thật tướng chính là vô tướng.

Chúng sinh sống trong thế giới Ta bà nầy tức là đang bơi trong biển khổ cho nên Đức Thế Tôn muốn đem Phật pháp để giúp chúng sinh nương theo đó mà giải thoát. Vì thế Phật mới nói thuyết vô thường, vô ngã, khổ, không và diệt phiền não để chứng đắc Niết bàn. Vì đây là lời của Phật nên tôn giả Ca Chiên Diên mới đem những ý chính mà diễn lại cho các Tỳ Kheo nghe thì lời nói của tôn giả là đúng. Nói đúng mà tại sao lại bị quở? Trưởng giả Duy Ma Cật không những chỉ trích tôn giả Ca Chiên Diên mà còn chỉ trích tất cả các vị đại đệ tử của Phật không phải vì họ nói sai hay tu hành sai mà họ không đi đúng Phật đạo. Con đường để đạt đến Phật quả viên thành bắt đầu từ nhân thừa, thiên thừa, tiểu thừa, duyên giác thừacuối cùng tiến đến đại thừa viên giáo để đến Đẳng giácthành Phật. Bất cứ ai trong thế gian nầy nếu muốn hoàn thành Phật đạo đều phải đi theo con đường của các vị A La Hán cả, nhưng lý do họ bị khiển trách là vì họ tự mãn ở địa vị của hàng Thanh văn mà không tiếp tục tinh tấn tu hành từ Thanh văn lên Bồ-tát hay từ Tiểu thừa sang Đại thừa. Tuy đã thoát khỏi sinh tử luân hồi nhưng nếu không tiến tu theo Bồ-tát đạo thì trí tuệ không phát sinh, vô minh chưa trừ diệt thì làm sao thành Phật được. Do đó ông Duy Ma Cật mới đại diện cho Phật chỉ bày con đường sáng để khai thị cho họ theo đó mà tiếp tục tu hành để viên thành Phật đạo. Đây là chỉ trích trong tinh thần xây dựng vậy.

Khi Đức Phật thuyết pháp dạy các Tỳ Kheo thì Ngài thuyết huyễn pháp, độ huyễn nhân để chứng huyễn quả. Nhưng tôn giả Ca Chiên Diên nghe Phật nói huyễn lại tưởng là thật. Phật dùng phương tiện lại tưởng là cứu cánh cho nên tôn giả mới đem những lời Phật mà dạy cho các Tỳ Kheo.

Đứng về phương diện pháp tướng mà nói thì vạn pháp là thật có cho nên thấy vạn phápvô thường. Cũng như thấy thân nầy là thật nên phải chịu sinh lão bịnh tử. Thấy cái ta là thật có nên thấy cái ta là vô ngã. Muốn ngã và ngã sở được trường tồn vĩnh cửu nên thấy vạn pháp giai không. Thấy phiền não là thật cho nên mới mong cầu tịch diệt Niết bàn. Tóm lại vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt đều là pháp tướng tức là tướng sinh diệt của thế gian. Vì thế tôn giả Ca Chiên Diên càng diễn giải, biện luận cho các Tỳ Kheo thì càng chứng tỏ tâm ông bị dính mắc càng nhiều. Do đó trưởng giả Duy Ma Cật mới đến bảo ông chớ đem tâm hạnh sinh diệt tức là pháp tướng mà nói pháp Thật Tướng. Tại sao? Bởi vì tâm hạnh sinh diệt là pháp thế gian, là tương đối thì làm sao diễn tả được pháp Thật Tướng tức là tuyệt đối, là pháp xuất thế gian.

Đứng về phương diện tuyệt đối mà nói thì các pháp không sinh mà cũng không diệt, không còn đối đãi tức là Bất nhị. Ông Ca Chiên Diên nói các pháp có sinh có diệt tức là vô thường còn ông Duy Ma Cật nói các pháp không sinh không diệt mới là vô thường. Đây là hai tư tưởng hoàn toàn trái ngược nhau. Vậy ai đúng ai sai? Thật ra cả hai cùng đúng. Tại sao lại có chuyện ngược với lý vô nhị thị như vậy? Nếu đứng về pháp Tướng tức là pháp sinh diệt tương đối của thế gian thì ông Ca Chiên Diên nói đúng. Còn nếu dựa vào pháp Tánh bất sinh bất diệt tức là Chân Lý Tuyệt đối thì ông Duy Ma Cật đúng vì trong Chân Không thì làm gì có sinh có diệt, có tăng có giảm. Nhưng nếu nói không sanh không diệt thì tại sao nói vô thường như các pháp sinh diệt? Đứng về pháp Tánh thì không sanh không diệt nhưng nhờ có duyên hợp mới thành Tướng. Mà đã là duyên hợp thì có sanh có diệt tức là vô thường. Đây chính là bất biếntùy duyên. Thí dụ như cái nhà của chúng ta. Vì cái nhà là do duyên hợp của gạch, ngói, cây, xi măng…nên cái nhà không có tự tánh tức là Không. Vì cái nhà là do duyên hợp mà thành nên có sanh có diệt tức là vô thường nhưng tự tánh của cái nhà là Không thì làm gì có sanh có diệt. Do đó cùng một đối tượng mà có hai bản thểhữu vivô vi hay tương đốituyệt đối. Hữu vi là Tướng và vô vi là Thể. Như vậy nói vô thường là chỉ cho giả tướng duyên hợp. Còn pháp Tánh thì không sanh không diệt. Cho nên cái không sanh không diệt đó không thể rời cái Tướng sanh diệt được. Vì thế Tâm Kinh mới có câu:”Sắc chẳng khác Không” là như vậy. Tuy tôn giả Ca Chiên Diên nói không sai, nhưng sự hiểu biết về sự sinh tồn của nhân sinh vủ trụ chỉ có một bên là pháp Tướng tức là pháp sinh diệt cho nên ông Duy Ma Cật muốn đem chân lý của Thật Tướng tuyệt đốigiảng giải để khai thị cho tôn giả thấy rằng tuy vạn pháp có tướng sinh diệt tức là vô thường nhưng Bản Thể Chân NhưThật Tướng thì không có hình tướng nên không bị chi phối bởi tánh vô thường, khi nào cũng như khi nào, không lên bổng xuống trầm, không còn già trẻ sống chết đổi thay nên được gọi là Chơn Thường. Vì thế ông Ca Chiên Diên tuy là nói không sai nhưng chưa được rốt ráo, thấu triệt mà thôi.

Ngũ uẩn rỗng không, không có điểm sanh khởi, đó là nghĩa khổ.

Năm uẩn ở đây chính là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong thế gian nầy con người còn thấy khổ, vui là vì còn cảm thọ những duyên trần từ bên ngoài. Khi gặp cảnh thuận duyên thì tâm vui mà gặp cảnh nghịch lòng thì phát sinh tâm sân hận. Tâm Kinh dạy rằng trong Bản Thể Chân Như thì ngũ uẩn là Không. Mà ngũ uẩn đã là Không thì làm gì có cảm thọ những duyên trần bên ngoài. Cảm thọ cũng Không thì vui khổ cũng chẳng còn. Vì thế ông Duy Ma Cật nói nghĩa khổ chính là chẳng khổ chẳng vui, là chân lý tuyệt đối vậy.

Trong Kinh Hoa Nghiêm có dạy rằng:”Vạn pháp duy tâm tạo” cho nên khổ vui cũng bởi tự lòng ta. Cùng một trái ớt cay mà có người thích ăn còn người khác lại không thích. Nếu bắt người Mỹ ăn cơm hoài như người Việt thì làm sao họ vui hay bắt người Việt ăn bánh mì hoài thì họ sẽ kêu khổ. Vậy vui khổ là không thật Có mà nó chỉ xuất hiện làm cho con người thêm điêu đứng khi chúng ta chạy theo gió lục trần. Khi con người còn chấp có hai bên là khổ vui nên tâm mới khổ vì muốn phá khổ tìm vui. Khi đã ngộ được Bản Thể Tuyệt Đối thì không còn chấp có khổ vui mà chỉ thấy rõ tất cả chỉ là một cái bất biến. Trong cuộc đời có ai lại không đối diện với cảnh trái ý nghịch lòng. Nếu người không hiểu đạo khi gặp nghịch duyên thì họ than trời, trách đất chẳng những làm khổ cho mình mà còn làm khổ cho mọi người chung quanh. Còn người có trí tuệ sáng suốt thì cũng cảnh nghịch duyên đó mà họ bình tĩnh lắng lòng để tìm nguyên nhân nào tạo ra nghịch cảnh mà tìm phương đối trị để vượt qua cảnh trái ý nghịch lòng. Cái vui khổ mà con người thọ nhận trong đời nầy chẳng qua là cái quả của những cái nhân tốt xấu mà họ đã tác tạo từ kiếp trước mà thôi. Tự tác hoàn tự thọ tức là ta làm thì ta chịu có gì phải phàn nàn. Chúng ta không có túc mạng thông thì không thể nào biết được mình đã làm những gì trong tiền kiếp. Nhưng điều quan trọng mà con người cần phải chú ý là ngay trong đời hiện tại cũng như trong tương lai đừng gây ra nghiệp xấu vì đây chính là những duyên xấu sẽ kết tập với những nghiệp bất thiện trong quá khứ mà tạo thành cái ác quả để hành hạ chúng ta. Nhân mà không có duyên thì không bao giờ thành quả. Do đó không chỉ riêng có Bồ-tát mới thấy câu:”Bồ-tát sợ nhân chúng sinh sợ quả” là chân lý mà tất cả chúng sinh cũng như Bồ-tát cùng sợ nhân cả.

Các pháp rốt ráo không, không có nguồn gốc, đó là nghĩa không.

Không có một hiện tượng tinh thần hay vật chất nào trong thế gian nầy có thể tự nó sinh tồn mà không cần đến những trợ duyên khác. Vì do sự kết hợp của nhiều nhân duyên nên tất cả vạn pháp chính nó không có tự tánh, không có chủ thể hay vô ngã tức là Không. Không ở đây có nghĩa là Chơn Không Diệu Tánh tức là từ vô thỉ nó như vậy và cho đến vô chung nó cũng thế, không tăng không giảm nên nói không nguồn không gốc là như vậy. Cái Không nầy mới chính thậtnghĩa không chớ không phải cái không đối với cái có của hàng Thanh văn.

Ngã và vô ngã không hai, đó mới là nghĩa vô ngã.

Ngã là thấy mình thật, vạn vật cũng thật. Còn vô ngã thì mình là huyễn và vạn vật, chúng sinh cũng huyễn. Khi còn thấy có ngã và vô ngã là thấy có bên nầy bên kia, là còn phân biệt nhị nguyên tức là tâm không bình đẳng. Đây là lối nói ngược để phá trừ bệnh chấp tướng, nhưng thật ra trong vô thường có Chơn thường và trong vô ngã có Chơn ngã. Đây mới chính là Trung đạo. Thí dụ như ngày xưa chúng ta chưa biết đạo thì lúc nào cũng chạy theo bản ngã, làm việc gì cũng vì mình, ai nói nặng một chút là giận là hờn, ai tâng bốc là kiêu căng, tự phụ cũng vì lầm tưởng thân nầy là thật, cái Ta là thật. Khi đã biết thân nầy là giả, thế gian vủ trụ là giả thì từ cái bản ngã mê lầm quay về với cái tự tánh thanh tịnh mà sống với tinh thần vô ngã từ bi của nhà Phật. Vậy ngã và vô ngã vốn ở trong ta. Nếu chạy theo lục dục thất tình là ngã còn sống với tự tánh bản nhiên thanh tịnhvô ngã. Tuy hai nhưng mà một tức là bất nhị thì đây mới là nghĩa vô ngã vậy.

Các pháp xưa không sanh, nay không diệt, đó là nghĩa tịch diệt.

Giáo lý Tiểu thừa dựa trên pháp hữu vi mà thấy các pháp có sinh có diệt nên tâm bất định mà sinh ra cái khổ. Do đó họ cố tu, xa lìa cái sinh diệt cho tâm được an định mà tìm cái vui tức là sự tịch diệt của Niết bàn. Ngược lại tư tưởng Đại thừa thì cho rằng các pháp từ nguyên thủy đến nay vẫn như thế, không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không tăng không giảm. Mà các pháp vốn không sanh thì làm gì có diệt! Đây chính là Pháp Tánh của các pháp tức là Không. Vì là Chơn Không Diệu Tánh không hình không sắc, không kích thước, không nặng nhẹ thì làm gì có thể nghĩ bàn hay dùng văn tự để diễn bày được.

Như thế khi còn mê lầm vọng tưởng điên đảo thì còn thấy các pháp có sinh có diệt, đến khi trí tuệ bừng sáng để nhận thấy Thể Tánh bất sinh bất diệt của các pháp tức là thấy được tính Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thì vọng tưởng điên đảo không còn và tâm hằng vắng lặng thanh tịnh thì Niết bàn còn dùng vào đâu mà cầu mong chứng với đắc thì đây mới chính là nghĩa Tịch Diệt vậy.

Như vậy:

- Nếu thấy thân là vô thường thì phải quay về sống với pháp tánh bất sinh bất diệt để tới chỗ Chơn Thường.

- Biết vạn pháp trong thế gian vủ trụ là vô ngã thì cố gắng suy tư quán chiếu, tĩnh lựquay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì sẽ thấy Chơn Ngã.

- Nếu để tâm chạy theo vọng trần thì sẽ cảm thọ cái vui hay cái buồn, nhưng nếu thấy rằng ngũ uẩn là Không thì sẽ chặn được gió lục trần. Không có gió lục trần thì làm gì còn cảm thọ cho nên buồn vui cũng vì thế mà tan biến.

- Nếu thấy thế gian sinh diệt thì tâm mới có khổ bây giờ quay về với pháp tánh thì sẽ không còn sinh diệt. Không sinh diệt thì khổ không còn tức là Tịch Diệt.

Tóm lại theo tư tưởng đại thừa thì ngay trong vô thường mà thấy được Chơn Thường. Ngay trong vô ngã mà thấy được Chơn Ngã. Trong cái khổ mà thấy Chơn Lạc và trong thế giới uế độ nầy mà vẫn thấy được Niết bàn thanh tịnh tức là Chơn Tịnh vậy. Vì thế với tuệ nhãn của Bồ-tát thì vạn pháp là Chơn Thường, Chơn Ngã, Chơn Lạc và Chơn Tịnh hay là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Nói một cách khác, tất cả vạn pháp trong thế gian vủ trụ nầy thì Tướng là giả huyễn, là sinh diệt. Thể thì lặng lẽ, là Chơn Không Diệu Tánh, là Không. Còn Dụng thì phát sinh từ tâm để tạo thành muôn sai vạn biệt. Đối với người tu theo đại thừa thì cho dù tâm có phát sinh trăm ngàn ý niệm, chánh có tà có, thiện có ác có…nhưng con người làm chủ tâm tức là kiềm chế ý niệm chớ không chạy theo nó. Niệm vừa dấy lên thì tự nhiên nó lắng xuống, biến đi. Vô niệm tức là Chơn tâm, là Phật tánh, là hạnh phúc vĩnh hằng trong tất cả chúng ta.

Hằng ngày chúng ta đi chùa, ngồi thiền, kinh hành, tụng kinh, niệm Phật mà người chửi còn giận, vật đẹp muốn lấy, tranh công đoạt chức thì vẫn làm nô lệ cho bản ngã. Muốn đạt đến ngã Không thì phải thấy vạn phápvô thường, vô ngã, Không và khổ như cái thấy biết của các vị A La Hán. Sau cùng phá luôn chấp pháp tức là pháp Không để được cái nhìn cái biết của Bồ-tát. Đó là thế gianhuyễn hóa, nhưng Bản Thể thì thường hằng bất biến, là Chơn Không Diệu Tánh nên lúc nào cũng thanh tịnh. Con người biết quay về sống với tự tánh thanh tịnh của mình thì ở đâu và lúc nào cũng có tịch diệt Niết bàn.

Tôn giả Ca Chiên Diên nói tiếp:

Sau khi ông Duy Ma Cật diễn nói về những pháp yếu đó, các Tỳ Kheo tâm được cởi mở. Vì vậy, hôm nay con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Các Tỳ Kheo khi đã được nghe Chân lý tuyệt đối, lãnh hội được pháp Tánh thanh tịnh thì như người ngũ mê sực tỉnh, không còn thấy mình bị trói buộc và tâm rất hoan hỷ. Ý của ông Duy Ma Cật trong đoạn kinh nầy là đứng lấy tâm sinh diệt tương đối của thế gianluận bàn về pháp Tánh tức là Chơn Không Diệu Tánh. Vì nó là Chơn Không, là rỗng lặng nên không thể dùng ngôn ngữ, văn tự để diễn bày. Nhưng nếu có quán chiếu, có thực hành thì sẽ ngộ Chân lý và nhập Thể Tánh thì lúc đó tự mình sẽ có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19874)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28995)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20705)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19461)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30540)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36460)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33253)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35586)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21006)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21936)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25280)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25816)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31293)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18580)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25162)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23792)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28961)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20891)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31465)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25565)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29735)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22539)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25740)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23306)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25761)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23754)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40625)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23363)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22479)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22106)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23521)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23299)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24336)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41132)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19013)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20510)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27744)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38142)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34091)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36815)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24030)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29226)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60183)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27635)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68771)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24554)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24516)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22738)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26389)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26566)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20838)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20084)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27586)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46476)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53599)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23627)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21119)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25611)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29296)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant