Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tôn giả A Na Luật

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9436)
Tôn giả A Na Luật

GIẢNG GIẢI KINH DUY MA CẬT
Tác giả Lê Sỹ Minh Tùng

Chương Thứ Ba
Phẩm Đệ Tử
(The Disciples’ Reluctance to Visit Vimalakirti)
Hàng Thanh Văn

Tôn giả A Na Luật (Anurudha)

Vấn Đề Thiên Nhãn

Tôn giả A Na Luật sinh ra trong dòng dõi vua chúa. Ông là em họ của Thái tử Tất Đạt Đa. Khi Đức Phật thành đạo thì Ngài trở về cung thành Ca Tỳ La Vệ thuyết pháp giáo hóa dòng họ Thích Ca. Về sau A Na Luật cùng với sáu vị vương tử khác là Bạt Đề, A Nan, Đề Bà Đạt Đa, Kiếp Tân Na, Bà SaNan Đề cùng xuất gia quy y theo Phật. Sống trong tăng đoàn, đạo tâm A Na Luật rất kiên cố cho dù gặp sắc đẹp cũng không hề xao động. Một hôm, trong lúc Thế Tôn đang thuyết pháp, A Na Luật ngủ gục nên bị Phật quở trách. Ông hổ thẹnquyết tâm không ngủ đến nỗi đôi mắt bị mù. Chính Đức Phật đã dạy môn “Kim Cang Chiếu Minh Tam Muội” và chẳng bao lâu A Na Luật đạt được Thiên nhãn thôngchứng quả A La Hán. A Na Luật mất nhục nhãn mà được thiên nhãn làm tất cả chúng tăng hết lòng ái mộkính trọng. Vì tôn giả có thể thấy được tam thiên đại thiên thế giới nên Đức Phật khen tặng ông là đệ nhất Thiên nhãn trong hàng Thanh văn.

Một hôm A Na Luật đến hỏi Xá Lợi Phất rằng:

- Thưa tôn giả! Tôi dùng thiên nhãn thanh tịnh có thể thấy được ba ngàn đại thiên thế giới. Tôi được chánh niệm tinh tấn không lay động, hiện tại thân thể tôi khinh an như dạo chơi trong trời đất tịch mịch và tâm tôi đã lìa chấp trước. Vậy có phải là tôi đã ly phiền não đắc giải thoát không?

Xá Lợi Phất là bậc thượng thủ trong tăng đoàn, bèn nói:

Tôn giả A Na Luật! Vừa rồi ông nói nhờ có thiên nhãn nên thấy rõ ba ngàn đại thiên thế giới, đó là tâm ngã mạn. Ông nói ông có chánh niệm bất động là tâm kiêu ngạo. Tâm ông lìa chấp trước, không còn tán loạn là tâm cuồng vọng. Theo sự hiểu biết của tôi phải xa lìa tâm ngã mạn, tâm kiêu ngạo, tâm cuồng vọng mới thật là lìa phiền não đắc giải thoát.

Đức Phật gọi ngài A Na Luật bảo:

A Na Luật! Ông hãy đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

A Na Luật thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con không kham lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật. Bởi vì con nhớ một hôm nọ, con đang kinh hành, bấy giờ có vị Phạm Vương tên là Nghiêm Tịnh và hàng ngàn Phạm Vương khác phóng hào quang vào chỗ con, dập đầu làm lễ và hỏi con rằng:

- Thưa ngài A Na Luật! Thiên Nhãn ngài chứng được có thể quan sát được bao xa?

- Bạch Thế Tôn! Con trả lời với Phạm Thiên Vương rằng:

Thiên nhãn của tôi trông thấy cõi Tam thiên Đại thiên thế giới của Đức Phật Thích Ca như xem trái quít trên bàn tay.

Bạch Thế Tôn! Lúc bấy giờ trưởng giả Duy Ma Cật đến hỏi con rằng:

- Thưa ngài A Na Luật! Thiên nhãn của ngài thấy đó là làm ra tướng mà thấy hay không làm ra tướng mà thấy? Nếu như làm ra tướng thì khác gì ngũ thông của ngoại đạo. Nếu không làm ra tướng thì là vô vi. Vô vi thì không có thấy?

- Bạch Thế Tôn! Lúc đó con chẳng biết nói gì, đành im lặng.

Một tiểu thiên thế giới có 1,000 thế giới tức là 1,000 trái đất chúng ta đang ở. Trung thiên thế giới có 1,000 tiểu thế giới tức là một triệu trái đất. Đại thiên thế giới có 1,000 trung thiên hay một tỷ trái đất. Do đó mỗi cõi của một Đức Phật giáo hóa chẳng hạn như cõi Ta bà của Đức Phật Thích Ca gồm có một tỷ trái đất.

Trong thế gian nầy có năm loại mắt khác nhau, đó là:

1) Nhục nhãn: là mắt thịt của chúng sinh, chỉ nhìn gần chớ không nhìn xa được.

2) Thiên nhãn: là mắt của các vị Trời ở cõi Sắc giới và của những người tu thiền định đắc quả. Loại mắt nầy thì thấy gần, thấy xa, thấy trong, thấy ngoài và sáng tối đều thấy được cả.

3) Huệ nhãn: là mắt của các vị A La Hán hay Bích Chi Phật để thấy rõ vạn phápvô thường, vô ngã, khổ, Không nên họ mong cầu chứng đắc Niết bàn. Niết bàn là vì thấy khổ là thật, sinh lão bệnh tử là thật nên nếu muốn đạt được Niết bàn nầy thì các vị A La Hán phải xa lánh thế gian, chạy trốn cái khổ.

4) Pháp nhãn: là mắt sáng suốt của chư Bồ-tát vì đã thực hành sâu xa Bát Nhã Ba-La-Mật để thấy rõ căn cơ của chúng sinhtùy duyên hóa độ. Bồ-tát thì có vô trụ xứ Niết bàn tức là bất cứ ở đâu cũng có an vui tịch diệt cả. Vì các Ngài nhận biết vạn pháp giai Không tức là tất cả nhân sinh vủ trụ đều là giả huyễn nên tâm không dính mắc. Các Ngài vào đời để cứu chúng sinh là làm việc huyễn, giúp cho huyễn chúng sinh thoát ra khỏi huyễn tai ách. Cái gì cũng huyễn nên tâm lúc nào cũng thường lạc. Thật thì thấy Có rồi sợ mất, còn huyễn là không thật Có thì mất hay còn cũng vậy thôi, lòng không tiếc tức là Niết bàn vậy.

5) Phật nhãn: là mắt của Phật. Vì thường ở trong Chánh định nên tâm lúc nào cũng thanh tịnh, không bị ngăn ngại nên Phật thấy rõ tất cả và đầy đủ chẳng những tam thiên đại thiên thế giới mà còn tất cả các cõi Phật khác nữa.

Phạm Vương là các vua cõi Trời có nhiều phước báo nên thân và cung điện có hào quang sáng chói. Riêng vị Trời Nghiêm Tịnh chẳng những có hào quang chiếu sáng rực rỡ mà còn có đầy đủ vẻ trang nghiêmthanh tịnh. Các vị Trời đều có Thiên nhãn nên họ có thể phóng hào quang mà nhìn xa thấy rộng cho nên khi gặp đệ nhất Thiên nhãn A Na Luật thì họ muốn thử tài là ai nhìn xa hơn. Ông A Na Luật bị mù nhưng nhờ tu Kim Cang Chiếu Minh Tam Muội mà có được Thiên nhãn nên có thể thấy một tỷ thế giới như trái đất rất rõ ràng như xem trái quít trên bàn tay thì Thiên nhãn của tôn giả chắc chắn thấy xa hơn Thiên nhãn của các vị Trời. Thật ra đối với các vị A La Hán của hàng Thanh văn thì phải nói là Huệ nhãn vì đây là Thiên nhãn do tu mà được. Các vị Trời có Thiên nhãn là do quả báo từ đời trước biết tu thập Thiện nên họ sử dụng tự nhiên Thiên nhãn mà không cần tác tướng. Không tác tướng tức là không khởi ý dụng công. Còn các vị A La Hán nhờ công phu tu tập chứng đắc mà có vì thế khi sử dụng Thiên nhãn họ phải cần tác tướng. Nhưng nếu nhờ dụng công mà có thì Thiên nhãn của các vị A La Hán đâu khác gì ngũ thông của ngoại đạo. Ngày xưa lúc Đức Phật còn tại thế thì chẳng những hàng Thanh văn chứng được năm phép thần thông mà ngay cả ngoại đạo do công phu tu tập cũng đạt được. Đó là:

1) Thiên Nhãn Thông: là có nhãn lực nhìn thấy khắp muôn loài cùng sự sinh hóa trong thế gian bao la hiện tại.

2) Thiên Nhĩ Thông: là có nhĩ lực để nghe khắp mọi nơi bao gồm loài người và loài vật.

3) Túc Mạng Thông: là có trí lực hiểu biết các kiếp trước của đời mình.

4) Tha Tâm Thông: là có tâm lực biết được tâm niệm sở cầu của kẻ khác.

5) Thần Túc Thông: là có thần lực để bay cao hay độn thổ.

Ngoài năm phép thần thông trên, Lậu Tận Thông là có trí tuệ thông suốt ba đời để không còn đau khổ, phiền nãosinh tử luân hồi. Chỉ riêng Đức Phật có được Lậu Tận Không mà thôi.

Nếu ông A Na Luật do công phu tu tập mà có được Thiên nhãn cũng giống như ngoại đạo thì có gì đáng quý để các vua Trời phải cúi đầu đãnh lễ. Khi ông Duy Ma Cật hỏi ông A Na LuậtThiên nhãn của ngài thấy đó là do làm ra tướng mà thấy hay không làm ra tướng mà thấy? có nghĩa là những vật mà A Na Luật nhờ Thiên nhãn thấy được là được tạo ra hay không tạo ra? là có tướng hay không có tướng? Đây chính là tư tưởng nhị nguyên tức là còn đối đãi, có trên dưới, đúng sai, trong ngoài, thiện ác…Các vật được tạo ra là vật có hình tướnggiác quan có thể thấy được chẳng hạn như khi mắt thấy cái nhà thì cái nhà là hình tướng hiện ra trên võng mô của con mắt. Còn vật không được tạo ra là vật không có hình tướng mà các giác quan không thấy được. Thí dụ như khi chúng ta tưởng nhớ đến chiếc Lexus thì thời điểm nầy đâu có chiếc xe để thấy nên không có hình chiếc xe hiện trên võng mô của con mắt, nhưng hình bóng chiếc xe vẫn hiễn hiện rõ ràng trong tâm của chúng ta thì chiếc xe Lexus nầy là không làm ra tướng mà vẫn thấy. Khi mắt thấy hình tướng nào tức là nhãn căn tiếp xúc với sắc trần để tạo ra cái biết của sự thấy tức là nhãn thức. Ông A Na Luật đã bị mù thì nhãn căn không thể tiếp xúc với sắc trần được tức là không có hình ảnh hiện ra trên võng mô của mắt thì rõ ràng Thiên nhãn của ông A Na Luật là không làm ra tướng tức là vô vi. Mà vô vi thì không có thấy. Không có hình tướng nơi mắt mà tại sao ông A Na Luật lại thấy mọi vật gần xa rất rõ ràng? Nếu ông có thể thấy bằng trí tưởng tượng để nhớ lại những hình tướng mà ông đã thấy trước khi bị mù thì theo Duy Thức Học đây chính là Độc Đầu Ý Thức tức là chỉ một mình Ý Thức tác động mà không có liên quan gì tới năm thức khác. Nhưng Thiên nhãn của ông A Na Luật chẳng những thấy được mọi vật chất trong thế giới nầy mà còn có thể thấy được rất rõ ràng tất cả những gì rất xa nằm trong tam thiên đại thiên thế giới như thấy trái quít trên bàn tay mà trước kia ông chưa từng được thấy. Do đó Thiên nhãn nầy không phải chỉ do Độc Đầu Ý Thức mà thôi. Như vậy tất cả những hình tướng mà ông A Na Luật thấy được là thật hay giả, chân hay vọng, là do làm ra tướng mà thấy hay không làm ra tướng mà thấy? Câu hỏi khó quá làm ông A Na Luật không trả lời được, đành nín lặng.

Các Phạm Thiên thì được sự khinh an chưa từng có. Họ bèn làm lễ ông Duy Ma Cật và hỏi:

- Thưa trưởng giả! Trên đời nầy có ai là người được chơn thiên nhãn?

Ông Duy Ma Cật đáp:

- Chỉ có Phật Thế Tôn là người được chơn thiên nhãn, thường ở trong chánh định và thấy tất cả cõi nước chư Phật không do hai tướng.

Tuy Thiên nhãn của tôn giả A Na Luật có thể thấy được một tỷ thế giới trong cõi Ta bà của Đức Phật Thích Ca, nhưng không thể thấy được các cõi Phật khác. Chỉ có Đức Phậtthường trụ Chánh Định, phát huy được Đại Trí Tuệ sẳn có khiến tâm hoàn toàn thanh tịnh nên chẳng những thấy rõ thế giới Ta bà nầy mà còn thấy được các cõi Phật khác. Hướng Tây thì có cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà, hướng Đông có cõi Phật Dược Sư…thì đây mới là chân Thiên nhãn. Cho dù tôn giả A Na Luật có được Thiên nhãn thôngchứng đắc A La Hán thì trí tuệ vẫn còn quá hạn hẹp cho nên ông Duy Ma Cật dạy cho các vị Trời chỉ có Đức Phật mới là người có đủ lục đại thần thông và trí tuệ thông suốt ba đời. Đối với đạo Phật nếu tâm bất an thì trí rối loạn cho nên tu thiền, niệm Phật là cốt làm cho tâm được yên tịnh. Mà tâm yên thì trí sáng. Trí sáng ở đây không những trí tuệ được sáng suốt mà còn sáng cả sáu căn. Vì sáu căn được thông suốt nên mới gọi là lục thông. Cái khác nhau giữa thần thông do tâm thanh tịnh và do luyện tập là khi nào còn tập luyện, còn vận công thì còn thần thông đến khi không tập luyện thì thần thông biến mất. Còn thần thông do tâm an định là bởi trí tuệ sáng suốt mà có nên đây mới là thần thông chân thật. Trong Kinh Hoa Nghiêm có vị Thiện Tài Đồng Tử trong số hai ngàn người đến đánh lễ nghe pháp phát tâm cầu đạo Bồ-đề. Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát khuyên ngài nên đi tham vấn 53 vị Thiện Tri Thức từ Tỳ Kheo Đức Vân đến Phổ Hiền Bồ-tát. Mỗi vị Thiện Tri Thức đều hướng dẫn ngài về phương cách tu tập riêng của họ nhưng không có phương pháp nào được rốt ráo cả. Cuối cùng Bồ-tát Văn Thù dạy nếu muốn tiếp nhận tất cả những tinh hoa của giáo nghĩa thì phải cầu Đức Phật. Cũng như trăm sông đều đổ về biển lớn vì Phật là Đại Trí Tuệ.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng:”Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” có nghĩa là trong thế gian vủ trụ nầy cái gì có hình sắc thì là giả huyễn, còn nếu thấy được cái Thật Tướng của mọi vật thì thấy được Chân lý. Đức Phật thấy rõ Thật tướng của tất cả vạn phápvô tướng, là Tướng Không. Ngài lìa hai bên tương đối, không cần phân biệt, so sánh để thể nhập vào pháp môn Bất nhị tuyệt đối nên chơn Thiên nhãn của Đức Phật không do hai tướng là vậy. Chơn Thiên nhãnbất nhị, là nhất chơn. Ngài lìa Sự Tướng giả dối sinh diệt bên ngoài để thấy được Thể Tánh thanh tịnh thường hằng bất biến bên trong mà nhà Phật gọi là Thật Tướng, là Chân Như, là Bản Lai Diện Mục, là Chơn Tâm… Mặc dầu Thật TướngKhông Tướng tức là không hình, không sắc, không nặng không nhẹ, không tăng không giảm nhưng chính cái Thật Tướng nầy lại sinh ra muôn sinh vạn vật nên cái Không nầy được gọi là Chân Không Diệu Hữu vậy.

Ý của ông Duy Ma Cật là cho dù các vị Trời có Thiên nhãn là do phước đức tu thập Thiện, hay ngoại đạoThiên nhãn là do công phu tu tập thì họ vẫn còn nằm trong vòng sinh tử luân hồi, có gì phải quan trọng. Thiên nhãnthiên nhãn. Thấy gần thấy xa không có gì quan trọng mà hiểu xa biết rộng, thấy được Chân lý mới là điều cần thiết để khai mở trí tuệ mà được giác ngộ. Phàm phu thì thấy thần thông là quan trọng, còn bậc Thánh thì trí tuệChân lý mới là cứu cánh do đó đối với họ thấy là để mà thấy, dù thấy gần thấy xa cũng vậy thôi. Cũng như trong số bạn bè của chúng ta có người có nhiều tiền thì họ đi du lịch chỗ nầy, chổ kia. Tuy có cơ hội thấy nhiều mà tánh nào tật nấy tức là dầu đi tới đâu, thấy những gì mà tánh tham không giảm,tật đố không chừa, lòng từ bi không mở, trí tuệ không thông thì đâu có hơn những người không đi xa thấy nhiều mà tâm hằng thanh tịnh, cuộc sống an vui tự tại.

Tôn giả A Na Luật còn chấp thấy xa thấy gần tức là còn chấp tướng sinh diệt. Còn chấp tướng là còn kẹt trong vòng nhị nguyên đối đãi tức là thấy có trong có ngoài, có cao có thấp, có gần có xa…Còn thấy nhị nguyên là còn kẹt trong trí phân biệt tức là còn thấy khổ, vô thường, không và vô ngã. Ngược lại ông Duy Ma Cật muốn phá cả tướng trong lẫn ngoài. Lìa hai tướng thì không còn phân biệt, so sánh. Bỏ nhị nguyênThể nhập bất nhị thì phá tan phiền não, tâm an định thì trí tuệ sẽ phát sinh. Tôn giả A Na Luật tuy phá được chấp ngã nhưng chấp tướng vẫn còn vì thế nếu còn chấp tướng tức là còn sống với Sự Tướng tương đối sinh diệt. Mà còn nằm trong vòng nhị nguyên đối đãi phân biệt tức là còn thấy khổ. Bây giờ nếu quay về sống với Thể Tánh bất sinh bất diệt, phá tan biên giới nhị nguyên để hòa cùng Bản Thể Chân Như thì phân biệt đối đãi không còn, tâm được bình đẳnghoàn toàn thanh tịnh.

Con người chúng ta thì cũng thế. Nếu sống theo Sự Tướng là còn thấy có tam khổ, bát khổ. Vì còn phân biệt nên tâm chạy theo vọng trần mà thấy có phiền não khổ đau. Biết thế gianvô thường nên con người tham sống sợ chết. Nếu ngày nào chúng ta còn đi chùa, tụng kinh, niệm Phật mà tâm còn giận còn hờn, còn buồn còn khổ, còn bất bình bất mãn, còn tranh còn chấp thì ngày ấy chúng ta chưa hiểu đạo, chưa biết đạo và chưa sống vì đạo. Bây giờ nếu quay về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên có nghĩa là sáu căn thường sáng tỏ, không dính mắc nơi sáu trần thì sẽ nghiệm được Thể Tánh thanh tịnh của mình. Vì Thể Tánhbất sinh bất diệt, thường hằng bất biến cho nên con người có ai chết thật đâu mà sợ. Chết là để thay thân củ mà lấy thân mới cũng như người khách trọ bỏ khách sạn nầy để chuyển sang khách sạn khác vậy thôi. Trong Bản Thể thì làm gì có khổ! Khổ thì không có mà con người vì sống trong vọng thức mê lầm nên mới thấy có khổ. Thí dụ như rượu đâu có làm con người say mà hằng ngày con người vẫn chết lên chết xuống cũng vì rượu. Say là tại người chứ đâu phải tại rượu. Trong viện bào chế thuốc tây, dược phẩm là chất độc nhưng nó có giết vị dược sĩ nào đâu? Vậy khổ hay vui đều là do tâm tạo. Nếu thấy đời còn sinh diệt, còn tham đắm, còn dính mắc thì còn thấy có vui có khổ. Bây giờ đổi lối nhìn nhục nhãn bằng lối nhìn trí tuệ của Bô-tát thì vạn pháp là huyễn.

 Tại sao các vị Bồ-tát dễ phá trừ chấp ngã chấp pháp? Bởi vì chính họ là huyễn, vào trong huyễn thế gian để làm việc huyễn mà cứu độ huyễn chúng sinh. Đây là thực hành huyễn Tam ma đề vậy. Bồ-tát không chấp việc họ làm cho nên làm cũng như không làm, không có gì thật nên không có phiền não khổ đau. Thấy thế gian vủ trụ là tạm bợ, không thật cho nên Có cũng vậy mà Không cũng vậy thì lòng tham không dấy khởi. Mình cũng Không, người cũng Không và vạn vật cũng Không thì cái chấp đâu còn. Tâm thanh tịnh là hết khổ đau. Tất cả vạn pháp đều nằm trong tiến trình duyên khởi tức là bất biến tùy duyên thì từ Chơn Không sanh ra vạn pháptùy duyên bất biến thì từ vạn pháp trở lại với Bản Thể thanh tịnh ban đầu. Do đó không có cái gì thật sanh hay thật mất cả. Có trở thành Không rồi Không thành Có. Nếu không còn thấy có vô thường, khổ, không, vô ngã thì không mong cầu Niết bàn. Sống với Bản Thể Chân Như thì tâm thanh tịnh, an vui và tự tại. Không đau khổ thì cầu Niết bàn để làm gì? Bởi vì nếu không tham, không đắm, không giận, không hờn, không hơn, không thua thì tâm được thanh tịnh tức có Niết bàn.

Tất cả nhân sinh vủ trụ dựa theo Phật giáo chẳng qua là hiện tượng duyên khởi chớ không do một bàn tay mầu nhiệm nào tác tạo cả. Các vật thể làm nhân làm quả cho nhau, khi có nhân duyên thì thành mà duyên tan thì hoại. Ngày nay với khoa học không gian con người đã chứng minh rằng trái đất của chúng ta có được khoảng bốn tỷ rưỡi năm là do những vẫn thạch trong không gian kết tụ và chỉ còn tồn tại khoảng hai tỷ rưỡi năm nửa mà thôi. Tiến trình nầy kéo dài mấy tỷ năm thì mặt địa cầu mới nguội được. Trong những vẫn thạch lớn nầy đã chứa thành phần nước nên khi hòa nhập với hơi nóng của khí đốt đã tạo thành vần mây che phủ quả địa cầu. Những làn sóng điện từ trường trong không gian tạo ra những làn sấm sét và mưa bắt đầu đổ xuống. Thật ra con người có mặt trong thế gian nầy trên một triệu năm. Vì thế Kinh Phật mới dùng chữ vô thỉ vô chung là như vậy. Và một ngày nào đó nhân loại sẽ bị hủy diệtloài người mới sẽ được thành lập thì lúc đó Phật Di Lặc mới ra đời. Ngày nay biết bao nhà địa chất học đã gom góp rất nhiều vẫn thạch khắp năm châu bốn bể để chứng minh những gì Đức Phật đã chứng từ mấy ngàn năm về trước. Tuy nhiên có nhiều tôn giáo khác đã xác nhận trái đất và con người chỉ được tạo thành trên dưới mười ngàn năm. Nếu chỉ có mười ngàn năm thì làm sao mà gọi là xưa như trái đất được.

Đối với Phật giáo thì thần thông biến hóa xuất quỷ nhập thần không có gì quan trọng cả vì thần thông không thắng nổi nghiệp lực. Khi nghiệp lực phát khởi thì cho dù con người có trốn trên mây, có lặn tận đáy biển hay núp trong hang núi thì vẫn chết như thường. Ngày xưa vua Lưu Ly đem trăm vạn đại quân để tiêu diệt cung thành Ca Tỳ La Vệ thì đệ nhất thần thông Mục Kiền Liên bay vào thành, chọn năm trăm người ưu tú trong dòng họ Thích Ca, rồi hóa phép để họ trong bình bát và bay ra. Đến một nơi an ổn, khi mở nắp bình bát làm ngài một phen thất kinh hồn vía vì năm trăm người trong bình bát đều hóa thành máu cả. Ngay cả tôn giả Mục Kiền Liênkiếp trước làm nghề chài lưới giết hại quá nhiều chúng sinh. Tuy kiếp nầy tu đã thành Thánh nhưng khi nghiệp quả đã đến thì thần thông biến mất và đành chịu chết dưới tay bọn ngoại đạo.

Bấy giờ Nghiêm Tịnh Phạm Vương và năm trăm Phạm Vương quyến thuộc đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Tất cả lễ lạy dưới chân ông Duy Ma Cật và thoạt nhiên biến mất.

duyên cớ đó, con không dám lãnh trách nhiệm đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật.

Ông vua Trời Nghiêm Tịnh và năm trăm quyến thuộc vì nhờ tu Thập Thiện nên được phước báo làm Trời. Họ tu phước mà không tu huệ nên trí tuệ chưa khai. Nay nghe được Chân lý rốt ráo làm tâm khai trí mở nên ai ai cũng đều phát tâm cầu đạo Bồ-đề, đãnh lễ tạ ơn ông Duy Ma Cật rồi biến mất mà về lại Thiên cung.

Vì thấy sự hiểu biết của mình còn thua kém trí tuệ sáng suốtbiện tài vô ngại của trưởng giả Duy Ma Cật nên tôn giả A Na Luật từ chối, không dám đi thăm bệnh ông Duy Ma Cật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15705)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16398)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23625)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17516)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81358)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19616)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20263)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47471)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39239)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15849)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23261)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19296)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15219)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16827)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13099)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13162)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49047)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23365)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19451)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17197)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32172)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27500)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14347)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14818)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18652)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16448)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13944)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17308)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19417)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28076)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14422)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16971)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22209)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23352)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28057)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64901)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33274)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40226)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25165)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50285)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38596)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27368)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28628)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52285)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35931)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32941)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50895)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74960)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36186)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49037)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31050)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33985)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28952)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58878)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46311)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43861)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43256)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45983)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48066)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant