Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20. Kinh Ðại hội

29 Tháng Ba 201100:00(Xem: 10478)
20. Kinh Ðại hội

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2535 - 1991

 20. Kinh Ðại hội
 (Mahàsamaya sutta)

 1. Như vậy tôi nghe.

 Một thời, Thế Tôn trú tại bộ lạc Sakka (Thích-ca), thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở Ðại Lâm (Mahàvana), cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiênmười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.

 2. Lúc bấy giờ, bốn vị Tịnh Cư thiên (Suddhàvàsa) suy nghĩ như sau: "Thế Tôn nay trú tại bộ lạc Sakka, thành Kapilavatthu, ở Ðại Lâm, cùng với Ðại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiênmười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Vậy chúng ta hãy đến tại chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong mỗi chúng ta sẽ đọc một bài kệ dâng lên Thế Tôn".

 3. Rồi chư Thiên ấy, nhanh như nhà lực sĩ duỗi cánh tay co lại, hay co cánh tay duỗi ra, biến mất từ Tịnh Cư thiênhiện ra trước mặt Thế Tôn. Chư Thiên ấy đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, một vị Thiên đọc bài kệ trước Thế Tôn:

 Ðại hội tại Ðại Lâm
 Chư Thiên đồng tụ tập.
 Chúng con đến Pháp hội
 Ðảnh lễ chúng Bất Thắng.

 Rồi một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:

 Tại đây chúng Tỷ-kheo
 Thiền định, tâm chánh trực.
 Như chủ xe nắm cương,
 Bậc trí hộ các căn.

 Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:

 Như khóa gãy, chốt tháo,
 Cửa trụ bị đào lên.
 Sống thanh tịnh, có mắt
 Như voi khéo điều phục.

 Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:

 Những ai quy y Phật,
 Sẽ không đọa ác thú,
 Sau khi bỏ thân người,
 Sẽ sanh làm chư Thiên.

 4. Rồi Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo:

 - Này các Tỷ-kheo, phần lớn chư Thiên mười phương thế giới tụ họp để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời quá khứ đã là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những vị này được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời vị lai sẽ là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những vị này cũng sẽ được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ tuyên bố danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ cáo tri danh tánh của chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng danh tánh của chư Thiên. Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

 - Xin vâng, bạch Thế Tôn! - Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn.

 5. Thế Tôn giảng như sau:

 Bài kệ Ta sẽ giảng
 Chư Thiên trú Thiên giới,
 Những vị trú hang núi,
 Tâm tịnh, an thiền định.
 Như sư tử, tuy nằm
 Làm hoảng sợ quần sanh,
 Tâm tư thuần tịnh bạch,
 Trong sáng, không cấu uế.

 Biết hơn năm trăm vị,
 Họp tại Ca-tỳ-la
 Bậc Ðạo Sư thuyết giảng
 Chúng đệ tử thích nghe:
 "Các Tỷ-kheo, hãy xem
 Chư Thiên chúng đến gần".
 Nghe lời dạy đức Phật
 Ðại chúng nhiệt tình xem.

 6.

 Và hiện ra trước chúng
 Thấy rõ hàng phi nhân
 Kẻ thấy trăm thiên thần,
 Ngàn thần, và hơn nữa.
 Kẻ thấy bảy mươi ngàn
 Toàn các bậc phi nhân.
 Kẻ thấy vô lượng vị,
 Cùng khắp mọi phương hướng.
 Với pháp nhãn thấy rõ
 Và phân biệt tất cả
 Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,
 Chúng đệ tử thích nghe:
 "Các Tỷ-kheo hãy xem,
 Chư Thiên chúng đến gần".
 Ta sẽ theo thứ lớp
 Thuyết kệ cho người nghe.

 7.

 Bảy ngàn loại Dạ-xoa
 Trú tại Ca-tỳ-la,
 Có thần lực hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
 Sau ngàn từ Tuyết Sơn
 Dạ-xoa đủ sắc mặt
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo

 Ba ngàn từ Sàtà,
 Dạ-xoa đủ sắc mặt,
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 Như vậy mười sáu ngàn
 Dạ-xoa đủ sắc mặt,
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 8.

 Năm trăm từ Vessà
 Dạ-xoa đủ sắc mặt,
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
 Kumbhira, Vương Xá,
 Trú tại Vepulla,
 Hơn trăm ngàn Dạ-xoa,
 Hầu hạ vây xung quanh.
 Kumbhira, Vương Xá
 Cũng đến họp rừng này.

 9.

 Vua Dhatarattha (Trì Quốc Thiên vương)
 Trị vì tại phương Ðông,
 Chúa tể Càn-thát-bà
 Bậc đại vương danh tiếng.
 Vị này có nhiều con,
 Ðại lực, tên Indra
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 Quốc vương Virùlha (Tăng Trưởng Thiên vương).
 Trị vì tại phương Nam,
 Chúa tể Cưu-bàn-trà (Kumbhanda)
 Bậc đại vương danh tiếng,
 Vị này có nhiều con,
 Ðại lực, tên Indra
 Có thần lực, hào quang.
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 Vua Virùpakkha, (Quảng Mục Thiên vương)
 Trị vì tại phương Tây,
 Chúa tể loài Nàgà
 Bậc đại vương danh tiếng.
 Vị này có nhiều con
 Ðại lực, tên Indra,
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 Quốc vương Kuvera, (Ða Văn Thiên vương)
 Trị vì tại phương Bắc,
 Chúa tể, loài Dạ-xoa,
 Bậc đại vương, danh tiếng.
 Vị này có nhiều con,
 Ðại lực, tên Indra,
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 Trì Quốc vương, phương Ðông
 Tăng Trưởng vương, phương Nam
 Quảng Mục vương, phương Tây,
 Ða Văn vương, phương Bắc,
 Bốn bậc đại vương này,
 Khắp cả bốn phương trời,
 Cùng đứng, chói hào quang,
 Khắp rừng Ca-tỳ-la.

 10.

 Cũng đến các bộ hạ,
 Giả dối và xảo quyệt,
 Màyà, Kutendu, Vetandu, Vitu,
 Vituca, Candana, Kàmasettha,
 Kinnughandu,
 Nighandu chín vị đến.
 Panàda, Opamanna, Màtdi,
 (người đánh xe chư Thiên).
 Càn-thát-bà Cittasena;
 Vua Nala, Janesabha
 Pancasikha, Timbarù,
 Suriyavaccasà cũng đến.
 Như vậy cả vua chúa,
 Cùng với Càn-thát-bà,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo!

 11.

 Từ Nàbhasa, Vesàli, Tacchakà,
 Các Nàgà cũng đến.
 Kambala, Assatara, Pàyàgà,
 Cũng đến với quyến thuộc.
 Các Nàgà có danh tiếng,
 Dhatarattha và Yàmunà cũng đến.
 Eravana, Long vương,
 Cũng đến tại ngôi rừng.
 Những thiên điểu nhị sanh,
 Với cặp mắt thanh tịnh,
 Mãnh liệt chống Long vương,
 Nay bay đến ngôi rừng.
 Tên chúng là Citrà,
 Và tên Supannà.
 Long vương không sợ hãi,
 Nhờ ơn Phật an toàn
 Với những lời nhẹ nhàng,
 Chúng tự khuyên bảo nhau,
 Nàgà, Supannà (Kim Sí điểu)
 Ðều đến quy y Phật.

 12.

 Asura ở biển,
 Bị sét Kim Cang thủ,
 Anh của Vàsava,
 Có thần lực danh xưng.
 Kàlakanjà, dị hình, (Tu-la)
 Dànaveghasà, Vepacitti
 Cùng với Sucitti,
 Với Pahàràda, ác quỷ Namucì.
 Cùng con của Bali,
 Ðặt tên Veroca.
 Huy động toàn quân lực,
 Dâng cho vị thủ lãnh.
 Ràhu nói: "Mong thay
 Pháp hội được an toàn.
 Phó hội chúng Tỷ-kheo
 Ðều đến tại rừng này".

 13.

 Thần nước, đất, lửa, gió,
 Cũng đến Varunà,
 Với thủy tộc, Soma,
 Cả Yasa cũng đến.
 Chư Thiên Từ Bi sanh
 Có danh xưng cũng đến
 Mười vị thiên tộc này
 Dung mạo thật dị biệt,
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 14.

 Venhù, Sahali,
 Asamà, Yamà,
 Chư Thiên thuộc Nguyệt tộc,
 Vị thủ lãnh cũng đến.
 Chư Thiên thuộc Nhật tộc
 Vân thần tên Manda,
 Quần tinh vị thủ lãnh
 Vàsava, Vasù
 Thần Sakka cũng đến.
 Mười vị Thiên tộc này,
 Dung mạo thật dị biệt,
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng.
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 15.

 Sahavhù cũng đến,
 Với đầu lửa đỏ rực,
 Aritthakà, Rojà,
 Như bông hoa Ummà
 Varunà, Sahadhammà,
 Accutà, Anejakà
 Sùleyya-rucirà,
 Vàsavanesi cũng đến.
 Mười vị Thiên tộc này,
 Dung mạo thật dị biệt
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 16.

 Samànà, Mahàsamànà,
 Mànusà, Mànusuttamà,
 Khiddà-padùsikà, Mano-padùsikà
 Harayo, Lohita-vàsino,
 Pàragà, Mahà-Pàragà
 Có danh xưng cũng đến.
 Mười vị Thiên tộc này,
 Dung mạo thật dị biệt
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng,
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 17.

 Sukkà, Karumhà,
 Arunà, Veghanasà
 Odàta-gayhà,
 Vicakkhanà cũng đến,
 Sadàmattà, Hàragaja,
 Missakà có danh xưng cũng đến.
 Pajjunna thần sét,
 Làm mưa khắp mọi phương.
 Mười vị Thiên tộc này,
 Dung mạo thật dị biệt,
 Có thần lực hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 18.

 Khemiyà, Tusità, Yamà,
 Danh xưng Katthakà, Lambitakà,
 Thủ lãnh các Làmà,
 Jotinàmà, Asava,
 Tha Hóa Tự tại thiên,
 Hóa Lạc thiên cũng đến.
 Mười vị thiên tộc này,
 Dung mạo thật dị biệt,
 Có thần lực, hào quang,
 Có sắc tướng, danh xưng
 Hoan hỷ đến rừng này,
 Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.

 19.

 Sáu mươi Thiên chúng này,
 Với diện mạo dị biệt,
 Theo danh tộc chúng đến,
 Cũng nhiều vị khác nữa.
 Nói rằng: "Sanh đã tận,
 Then cài không còn nữa.
 Bộc lưu đã vượt qua,
 Ðã thành bậc Vô Lậu.
 Chúng con thấy vị ấy,
 Như voi vượt bộc lưu,
 Như trăng thoát mây tối".

 20.

 Subrahmà, Paramatta,
 Con các vị thần lực,
 Sanamkumàra Tissa,
 Ðến hội tại ngôi rừng.
 Ðại Phạm thiên, chúa tể,
 Ngự trị ngàn Phạm giới,
 Thác sanhhào quang,
 Dị hình có danh xưng,
 Mười đấng Tự Tại đến,
 Ngự trị mỗi mỗi cõi,
 Giữa vị này Hàrita,
 Cũng đến với đồ chúng.

 21.

 Tất cả đều cùng đến,
 Với Indra, Phạm thiên,
 Ma quân cũng tiến đến,
 Xem Hắc quỷ ngu si.
 "Hãy đến và bắt trói,
 Những ai bị tham triền,
 Hãy bao vây bốn phía,
 Chớ để ai thoát ly!"
 Như vậy Ðại Tướng quân,
 Truyền lệnh đoàn Hắc quỷ,
 Với bàn tay vỗ đất,
 Tiếng dội vang khiếp đảm.
 Như trong cơn giông tố,
 Sấm chớp và mưa rào,
 Nó liền thối quân lui,
 Phẫn nộ nhưng bất lực.

 22.

 Với pháp nhãn thấy rõ,
 Và phân biệt tất cả,
 Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,
 Chúng đệ tử thích nghe:
 "Ma quân đã tiến đến;
 Tỷ-kheo hãy biết chúng".
 Nghe lời dạy đức Phật,
 Ðại chúng tâm nhiệt tình.
 Kẻ thù đã bỏ đi,
 Xa vô tham, vô úy.
 Tất cả đều chiến thắng,
 Vô úy và vô xưng!
 Ðệ tử những vị này,
 Danh xưng, tâm hoan hỷ.

 Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

 [Xem Bản dịch Anh ngữ]

 20. Maha-Samaya Sutta
 The Great Meeting

 Translated by Bhikkhu Thanissaro

 Translator's Introduction
 This discourse is an interesting example of the folklore of the Pali Canon. It shows that the tendency of Asian popular Buddhism to regard the Buddha as a protective figure, and not just as a teacher, has its roots in the earliest part of the tradition. Metrical analysis indicates that the long "tribute" section of this discourse is very old, while the verses in the introductory section -- which is also found in the Samyutta Nikaya -- are later in form. This fits with a more subjective judgment: that the tribute was an earlier composition -- in the honorific style of the ancient court bards -- to which the introduction was added later. This judgment is based on the fact that the two sections do not quite fit each other. The introduction to the tribute indicates that the reciter of the tribute is the Buddha himself, whereas the narration in the tribute indicates otherwise.

 At any rate, this discourse is the closest thing in the Pali Canon to a "who's who" of the deva worlds, and should provide useful material for anyone interested in the cosmology of early Buddhism.

 The Commentary reports the belief that the devas enjoy hearing this discourse chanted in Pali. Until recently it was part of many monks' standard memorized repertoire, to be chanted at weddings and the dedication of new buildings. Even today, as many of the traditions of memorization in Asia seem to be falling by the wayside, there are a few monks and laypeople who chant this discourse regularly.



 I have heard that on one occasion the Blessed One was dwelling among the Sakyans at Kapilavatthu in the Great Wood, together with a large Sangha of approximately five hundred bhikkhus, all of them arahants. And most of the devatas from ten world-systems had gathered in order to see the Blessed One and the Bhikkhu Sangha. Then the thought occurred to four devatas of the ranks from the Pure Abodes: "The Blessed One is dwelling among the Sakyans at Kapilavatthu in the Great Wood, together with a large Sangha of about five hundred bhikkhus, all of them arahants. And most of the devatas from ten world-systems have gathered in order to see the Blessed One and the Bhikkhu Sangha. Let us also approach the Blessed One and, on arrival, let us each speak a verse in his presence."

 Then, just as a strong man might extend his flexed arm or flex his extended arm, those devatas disappeared from among the devas of the Pure Abodes and reappeared before the Blessed One. Having paid homage to the Blessed One, they stood to one side. As they were standing there, one devata recited this verse in the Blessed One's presence:

 A great meeting in the woods:
 The deva hosts have assembled.
 We have come to this Dhamma meeting
 To see the invincible Sangha.

 Then another devata recited this verse in the Blessed One's presence:

 The bhikkhus there are concentrated,
 Have straightened their own minds.
 Like a charioteer holding the reins,
 The wise ones guard their faculties.

 Then another devata recited this verse in the Blessed One's presence:

 Having cut through barrenness, cut the cross-bar,
 Having uprooted Indra's pillar, unstirred,
 They wander about pure, unstained,
 Young nagas well tamed by the One with Vision.

 Then another devata recited this verse in the Blessed One's presence:

 Those who have gone to the Buddha for refuge
 Will not go to the plane of woe.
 On discarding the human body,
 They will fill the hosts of the devas.

 Then the Blessed One addressed the monks: "Monks, most of the devatas from ten world-systems have gathered in order to see the Tathagata and the Bhikkhu Sangha. Those who, in the past, were Pure Ones, Rightly Self-awakened, at most had their devata-gathering like mine at the present. Those who, in the future, will be Pure Ones, Rightly Self-awakened, will at most have their devata-gathering like mine at the present. I will detail for you the names of the deva hosts. I will describe to you the names of the deva hosts. I will teach you the names of the deva hosts. Listen and pay close attention. I will speak."

 "As you say, lord," the monks replied. The Blessed One said:

 I recite a verse of tribute.
 Those who live where spirits dwell,
 who live in mountain caves,
 resolute, concentrated,
 many, like hidden lions,
 who have overcome horripilation,
 white-hearted, pure,
 serene, and undisturbed:
 Knowing that more than 500 of them
 had come to the forest of Kapilavatthu,
 the Teacher then said to them,
 disciples delighting in his instruction,
 "The deva hosts have approached.
 Detect them, monks!"
 Listening to the Awakened One's instruction,
 they made a diligent effort.
 Knowledge appeared to them,
 vision of non-human beings.
 Some saw 100, some 1,000, some 70,000,
 some had vision of 100,000 non-human beings.
 Some gained vision of innumerable devas
 filling every direction.
 Realizing all this,
 the One-with-Vision felt moved to speak.
 The Teacher then said to them,
 disciples delighting in his instruction,
 "The deva hosts have approached.
 Detect them, monks,
 as I describe their glories, one by one.

 7,000 yakkhas inhabiting the land of Kapilavatthu,
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 6,000 yakhas from the Himalayas,
 of varied hue,
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 From Mount Sata 3,000 yakkhas
 of varied hue,
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 These 16,000 yakkhas of varied hue
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 500 yakkhas from Vessamitta, of varied hue,
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 Kumbhira from Rajagaha,
 who dwells on Mount Vepulla,
 accompanied by more than 100,000 yakkhas --
 Kumbhira from Rajagaha:
 He, too, has come to the forest meeting.

 And Dhatarattha, who rules
 as king of the Eastern Direction,
 as lord of the gandhabbas:
 A glorious, great king is he,
 and many are his sons
 named Indra, of great strength.
 Powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, they have approached
 the monks' forest meeting.

 And Virulha, who rules
 as king of the Southern Direction,
 as lord of the kumbandas:
 A glorious, great king is he,
 and many are his sons
 named Indra, of great strength.
 Powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, they have approached
 the monks' forest meeting.

 And Virupakkha, who rules
 as king of the Western Direction,
 as lord of the nagas:
 A glorious, great king is he,
 and many are his sons
 named Indra, of great strength.
 Powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, they have approached
 the monks' forest meeting.

 And Kuvera, who rules
 as king of the Northern Direction,
 as lord of the yakkhas:
 A glorious, great king is he,
 and many are his sons
 named Indra, of great strength.
 Powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, they have approached
 the monks' forest meeting.

 Dhatarattha from the Eastern Direction,
 Virulhaka from the South,
 Virupakkha from the West,
 Kuvera from the Northern Direction:
 These four Great Kings
 encompassing the four directions,
 resplendent, stand in the Kapilavatthu forest.

 Their deceitful vassals have also come
 -- deceptive, treacherous --
 Maya, Kutendu, vetendu,
 Vitu with Vituta,
 Candana, the Chief of Sensual Pleasure,
 Kinnughandu, Nighandu,
 Panada, the Mimic,
 Matali, the deva's charioteer,
 Cittasena the gandhabba,
 King Nala, the Bull of the People,
 Pañcasikha has come
 with Timbaru and his daughter, Suriyavacchasa.
 These and other kings, gandhabbas with their kings,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 Then there have also come
 nagas from Lake Nabhasa,
 Vesali, and Tacchaka.
 Kambalas, Assataras,
 Payagas, and their kin.
 And from the River Yamuna
 comes the prestigious naga, Dhatarattha.
 The great naga Eravanna:
 He, too, has come
 to the forest meeting."

 They who swoop down swiftly on naga kings,
 divine, twice-born, winged, their eyesight pure:
 (Garudas) came from the sky to the midst of the forest.
 Citra and Supanna are their names.
 But the Buddha made the naga kings safe,
 made them secure from Supanna.
 Addressing one another with affectionate words,
 the nagas and Supannas made the Buddha their refuge.

 "Defeated by Indra of the thunderbolt hand,
 Asuras dwelling in the ocean,
 Vasava's brothers -- powerful, prestigious --
 Greatly terrifying Kalakañjas,
 the Danaveghasa asuras
 Vepacitti and Sucitti,
 Paharada, with Namuci,
 and Bali's hundred sons, all named Veroca,
 arrayed with powerful armies
 have approached their honored Rahu
 [and said]: 'Now is the occasion, sir,
 of the monk's forest meeting.'

 Devas of water, earth, fire, and wind have come here.
 Varunas, Varunas,
 Soma together with Yasa,
 the prestigious devas of the hosts
 of goodwill and compassion have come.
 These ten ten-fold hosts, all of varied hue,
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 Vendu (Visnu) and Sahali,
 Asama and the Yama twins,
 the devas dependent on the moon
 surrounding the moon have come.
 The devas dependent on the sun
 surrounding the sun have come.
 Devas surrounding the zodiac stars
 and the sprites of the clouds have come.
 Sakka, chief of the Vasus, the ancient donor, has come.
 These ten ten-fold hosts, all of varied hue,
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 Then come the Sahabhu devas,
 blazing like crests of fire-flame.
 The Arittakas, Rojas,
 cornflower blue.
 Varunas and Sahadhammas,
 Accutas and Anejakas,
 Suleyyas and Ruciras,
 and Vasavanesis have come.
 These ten ten-fold hosts, all of varied hue,
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 Samanas and Great Samanas,
 Manusas and Super Manusas,
 the devas corrupted by fun have come,
 as well as devas corrupted by mind.
 Then come green-gold devas and those wearing red.
 Paragas and Great Paragas,
 prestigious devas have come.
 These ten ten-fold hosts, all of varied hue,
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 White devas, ruddy-green devas, dawn-devas
 have come with the Veghanas
 headed by devas totally in white.
 The Vicakkhanas have come.
 Sadamatta, Haragajas,
 and the prestigious multi-coloreds,
 Pajunna, the thunderer,
 who brings rain to all lands:
 These ten ten-fold hosts, all of varied hue,
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 The Khemiyas, Tusitas, and Yamas,
 the prestigious Katthakas,
 Lambitakas, and Lama chiefs,
 the Jotinamas and Asavas,
 the Nimmanaratis have come,
 as have the Paranimmitas.
 These ten ten-fold hosts, all of varied hue,
 powerful, effulgent,
 glamorous, prestigious,
 rejoicing, have approached
 the monks' forest meeting.

 These 60 deva groups, all of varied hue,
 have come arranged in order,
 together with others in like manner
 [thinking:]
 'We'll see him who has transcended birth,
 who has no bounds,
 who has crossed over the flood,
 the Mighty One, beyond evil,
 like the moon released from a cloud.'

 Subrahma and Paramatta Brahma,
 together with sons of the Powerful One,
 Sanankumara and Tissa:
 They too have come to the forest meeting.
 Great Brahma, who stands over
 1,000 Brahma worlds,
 who arose there spontaneously, effulgent:
 Prestigious is he, with a terrifying body.
 And ten brahma sovereigns,
 each the lord of his own realm --
 and in their midst has come
 Harita Brahma surrounded by his retinue."

 When all these devas
 with Indras and Brahmas had come,
 Mara came as well.
 Now look at the Dark One's foolishness!
 [He said:] "Come seize them! Bind them!
 Tie them down with passion!
 Surround them on every side!
 Don't let anyone at all escape!"
 Thus the great war-lord urged on his dark army,
 slapping the ground with his hand,
 making a horrendous din, as when
 a storm cloud bursts with thunder,
 lightening, and torrents of rain.
 But then he withdrew-enraged,
 with none under his sway.
 Realizing all this,
 the One-with-Vision felt moved to speak.
 The Teacher then said to them,
 disciples delighting in his instruction,
 "Mara's army has approached.
 Detect them, monks!"
 Listening to the Awakened One's instruction,
 they made a diligent effort.
 The army retreated
 from those without passion,
 without raising even a hair on their bodies.
 Having all won the battle
 -- prestigious, past fear --
 they rejoice with all beings:
 Disciples outstanding among the human race.

 Source: http://www.accesstoinsight.org/canon/digha/dn20.html
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26671)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28252)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29405)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33313)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21780)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30672)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31287)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37177)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32326)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27150)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20631)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22263)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 24003)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22872)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23223)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30432)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30113)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23142)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22343)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21796)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28244)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19278)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20179)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30931)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41542)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32750)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19137)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34032)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24978)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23692)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25340)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27778)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 25020)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23840)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58752)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23232)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20904)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28191)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28941)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19222)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24612)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21451)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23870)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28628)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29429)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17654)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31047)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25354)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18969)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20157)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23958)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19042)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20169)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20050)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24848)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19417)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22589)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61837)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31145)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22121)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant