Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Phật Thuyết Minh Tánh Của Các Đại Vốn Không Ngăn Ngại Gì Nhau Nhằm Khai Thị Chơn Lý “Sắc Không, Không Sắc”

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10243)
1. Phật Thuyết Minh Tánh Của Các Đại Vốn Không Ngăn Ngại Gì Nhau Nhằm Khai Thị Chơn Lý “Sắc Không, Không Sắc”

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

 Chương Thứ Bảy - PHẬT THUYẾT MINH TÁNH CỦA CÁC ĐẠI
VỐN KHÔNG NGĂN NGẠI GÌ NHAU, NHẰM KHI THỊ CHƠN LÝ: SẮC KHÔNG, KHÔNG SẮC


Bấy giờ Ngài Phú Lâu Na Di La Ni Tử ở trong đại chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy quỳ gối chắp tay cung kính bạch Phật rằng:


- Thế Tôn khéo vì chúng sinh mà diễn bày đệ nhất nghĩa đế. Từ lâu Thế Tôn thường khen con là thuyết pháp đệ nhất trong hàng người thuyết pháp. Vậy mà nay con nghe pháp âm nhiệm mầu Như Lai vừa dạy chẳng khác nào người điếc cách xa trăm bước lắng nghe tiếng muỗi mòng. Muỗi mòng còn không thấy còn nói gì đến chuyện nghe. Dù Phật dạy rõ ràng, nhưng chưa hiểu rốt ráo làm tâm con nghi hồ mơ hoặc. Như các Ngài A Nan, vì họ tuy đã khai ngộ nhưng tập lậu chưa trừ. Còn chúng con là những người đã được vị vô lậu trong chúng hội, mọi tập lậu đã sạch, nhưng khi nghe Như Lai thuyết pháp này, sao chúng con vẫn còn bối rối, nghi ngờ hối hận?


Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các thứ: 5 ấm, 12 xứ, 18 giới và 7 đại trong thế gian đều là hiện tượng biểu hiện xuất phát từ tánh thanh tịnh bản nhiên của Như Lai Tạng, vậy thì tại sao Như Lai Tạng bỗng nhiên lại sanh các tướng hữu vi vô thường vận động thay đổi trước sau, vô cùng vô cực như thế?


Bạch Thế Tôn! Như Lai cũng đã từng nói: Địa, thủy, hỏa, phong bốn đại bản tánh viên dung, khắp cùng khắp giới, vắng lặng thường trú. Bạch Thế Tôn! Nếu địa đại cùng khắp thì làm sao dung được thủy đại?


Nếu thủy đại cùng khắp thì làm sao hỏa đạiđiều kiện phát sinh? Làm sao có thể hiểu biết được rằng: Thủy đạihỏa đại đều cùng khắp pháp giới mà không đối kháng hủy diệt nhau? Bạch Thế Tôn! Tánh địa đại thì ngăn ngại, tánh hư không là rỗng suốt, làm sao có sự kiện hai đại đồng khắp cùng trong một bầu pháp giới? Con không biết nghĩa ấy là thế nào. Xin Phật rủ long từ, vén mây mê lầm cho con và đại chúng. Nói lời ấy rồi, tôn giả Phú Lâu Na năm vóc gieo xuống đất, kính mong lời dạy từ bi vô thượng của Đức Như Lai.


Sau khi Đức Phật đã thu ngũ uẩn, lục nhập, thập nhị xứ, thập bát giớithất đại về Như Lai Tạng bản thể tức là tánh thanh tịnh bản nhiên thì các vị có căn cơ Đại thừa đều nhận rõ tâm tính viên mãn sáng suốt. Duy chỉ có các vị trong hàng Thanh văn tuy đã phá được chấp ngã, nhưng vẫn còn chấp pháp nên không thấu rõ cái chơn đối với cái vọng mà chưa lãnh hội được. Vì thế Ngài Phú Lâu Na đại diện các vị định tánh A la hán mà hỏi Phật hai điều như sau:


1) Tại sao trong Như Lai Tạng tánh vốn thanh tịnh bản nhiên bỗng dưng lại chuyển biến sinh ra những hiện tượng hữu vi như như núi, sông, đất, liền…?


Sự thật, tất cả hiện tượng vạn pháp đều cùng chung một bản thể : Như Lai Tạng. Từ trong Như Lai Tạng bản thể vận động, biến chuyển duyên khởi những chủng tử mà tạo tác, hình thành các loài hữu tình và vô tình chúng sinh. Hiện tượng này còn được gọi là bất biến tùy duyên của pháp giới duyên khởi.


2) Địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến và thức thì trong bảy đại này tánh chất có đối kháng nhau. Thí dụ nước kỵ lửa kỵ, gió kỵ đất…Nếu thế, tại sao chúng có thể dung hợp được với nhau trong Như Lai Tạng mà không tương tàn, tương diệt?


Phật dạy rằng : ”Tánh sắc chơn không” nghĩa là tánh của sắc là không mà hư không thì bao trùm bao la vô cùng vô tận. ”Tánh không chơn sắc” nghĩa là trong hư không đã có đủ tất cả tánh chất của sắc hay nói chung của địa, thủy, hỏa, phong…, nhưng từ cái thể tánh thanh tịnh của hư không khi hội tụ đủ nhân duyên sẽ biến hiện thành ra sắc.


Tuy thủy đại đầy khắp hư không pháp giới tức là nơi nào trong không gian vô tận cũng đều chứa nước mà nước đâu có dập tắt lửa (hỏa đại) và nước cũng không làm ngập chìm cả thế gian nên Phật nói rằng: ”Tánh thủy chơn không”. Trong hư không tức là pháp giới không đại, vốn không phải nước (thủy đại) vậy mà trong không đại khắp đầy thủy đại. Do đó Phật mới dạy rằng: ”Tánh không chơn thủy”.


Hỏa đại cũng thế, lửa thì đầy khắp hư không mà không làm cháy nhà cửa, xe cộ, núi rừng hay vạn hữu thế gian. Vì vậy Phật mới nói: ”Tánh hỏa chơn không”. Trong hư không vốn không có lửa, nhưng khi chúng sinh cần thì lửa sẽ có trong hư không, cho nên Phật dạy rằng: ”Tánh không chơn hỏa”.


Nói tóm lại, tánh của các đại vốn không ngăn ngại gì nhau vì thế tuy trong hư không có đầy đủ các đại mà chúng không tương tàn, tương diệt vì các đại cùng chung một thể tánh. Đó là chơn không (bất biến).
Thế nào là định tánh A la hán?


Khi đã đọan trừ hết kiến hoặc, tư hoặcvi tế hoặc thì chứng được quả vị A la hán. Các vị A la hán tuy đã trừ được phiền não chướng, nhưng tri kiến chướng tức là vô minh thì chưa phá nổi. Niết bàn mà chư vị A la hán có chỉ là hóa thánh nghĩa là đây chỉ là tiểu Niết bàn chứ chưa phải là bảo sở Niết bàn tức là sự thanh tịnh, tịch diệt rốt ráo, hoàn toàn của các vị Bồ-tát, chư Phật. Nếu các vị A la hán muốn tiến tu để phát huy trí tuệ Đại thừahoàn thành Phật đạo thì gọi là Tuệ tánh A la hán. Còn nếu họ thỏa chí với quả vị A la hán mà không chịu tiến tu thì họ là Định tánh A la hán. Vì không chịu tiến tuphát tâm Bồ-đề mà chỉ muốn an hưởng Niết bàn cho riêng mình nên Đức Phật đã từng quở trách và gọi họ là mầm thối và hạt giống bị đốt cháy, không lợi ích cho chúng sinh.


Tôn giả Phú Lâu Na không biết nguyên nhân sanh khởi ra nhân sinh vũ trụ và không ngộ được chơn tánh viên dung nên không biết được sự diệu dụng của thế giới bản thểhiện tượng. Chỉ có Đức Thế Tôn là người đã đạt được Nhất Thiết Chủng Trí mới có thể thấu hiểu tận nguyên nhân sinh khởi của nó.


Tới đoạn kinh này, Đức Phật muốn khai thị một giáo lý thậm thâm vi diệu của nhà Phật. Đó là “sắc tức là không và không tức là sắc” nằm trong Bát nhã tâm kinh. Trong Phật giáo, danh từ sắc và không rất phổ thông khi nói về thế giới hiện tượngbản thể. Vậy thế nào là không?


Có ba thứ không, người đệ tử Phật cần nên để ý :


1) Cái “không” thứ nhất là rỗng không nghĩa là cái không này từ vô thỉ nó không có mà mãi về sau nó cũng chẳng có gì. Cái không rỗng toét này thì nhà Phật gọi là “ngoan không” và nó không dính dáng gì với cái không của nhà Phật.


2) Đương thể tức không : Khi con người hành thâm Bát nhã ba-la-mật-đa thời thì họ thấy rằng tất cả vạn pháp trong thế gian là giả tạm, không bền, không chắc, có đó rồi mất đó. Vì thế chothế gian vũ trụ vẫn sờ sờ trước mắt, nhưng dưới mắt của họ tất cả đều là không. Tại sao là không? Bởi vì vạn pháp là do nhân duyên tác tạo hình thành nên đến khi duyên tan thì nó sẽ hoại diệt. Vì thế sinh sinh diệt diệt, không có gì là trường cửu cả. Đó là tại sao ngày xưa Đức Phật tuy vẫn sống trong thế gian này, nhưng đối với Ngài thì tất cả đều là không nên Ngài mới có vô thượng Niết bànvô thượng Bồ-đề.


3) Cái không mà được dùng rộng rãi trong Bát nhã tâm kinh : ”Sắc tức là không và không tức là sắc” thì nhà Phật gọi là “chơn không” mà diệu hữu. Tất cả vạn pháp trong thế giới hữu vi như trời, trăng, mây, nước, chim bay, cá lặn mà con người nhận biết được thì gọi là có. Nhưng cũng trong cái thế giới vũ trụ bao la vô cùng vô tận này, cái mà con người không nhận thấy, biết được thì gọi là không. Mặc dù con người gọi nó là không, nhưng chính bên trong nó diệu hữu nghĩa là nó có tất cả những dữ kiện, những nguyên nhân, những chủng tử để khi hội đủ duyên thì nó sẽ biến thành cái có.

Nói cách khác cái có là cái mà mắt thấy được như núi, sông, trời, trăng, mây, nước. Còn cái không là cái mà mắt không thấy được. Nhưng thật sự trong cái không đó có chứa đầy đủ các chủng tử của vạn pháp, những yếu tố, những dữ kiện để khi hội đủ nhân duyên thì nó sẽ tổng hợp mà hình thành ra vạn pháp. Do đó cái không này chính là chơn không mà diệu hữu tức là bất biến tùy duyên nghĩa là khi tỉnh thì tất cả là không còn khi động thì mọi vật đều là có. Sự biến chuyển hình thành một cách huyền diệu này chỉ có thể dùng trí mà biết chớ không thể dùng mắt thường mà biết được.

Thí dụ không khí là vô hình vô sắc nên mắt thường không thấy được nên gọi nó là không. Nhưng khoa học ngày nay phân tích và xác định rằng trong không khí có chứa biết bao hóa chất như dưỡng khí oxygen, khí nitrogen, hơi nước và biết bao hóa chất khác. Nếu không có dưỡng khí oxygen thì làm sao con người và sinh vật sống được, nhưng đâu có ai thấy biết Oxygen ở chỗ nào? Cũng dựa trong thí dụ trên là trong không khí thì nơi nào cũng chứa rất nhiều hơi nước, nhưng mắt thường không thấy biết được hơi nước nên chúng ta một lần nữa gọi không khí là không. Nhưng bây giờ nếu nhiệt độ không khí giảm xuống và có tiếng sấm tức là luồng điện tạo ra phản ứng hóa học thì hơi nước sẽ chuyển thành mưa. Hơi nước là không mà khi hội đủ nhân duyên thì từ hơi nước (không) biến thành mưa tức là có. Vậy trong cái không có chứa tất cả những dự kiện như địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức. Nói cách khác trong không gian vũ trụ này thì chỗ nào cũng có địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại (nhận thức trực giác) và thức đại (nhận thức tư duy, phân biệt).


Vì trong không gian vô cùng vô tận có chứa đầy đủ địa đại. thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại nên từ đó con người, sinh vật và vạn pháp mới được cấu tạo, hình thành một cách mầu nhiệm. Thí dụ như nước Việt Nam năm 1975 dân số chỉ có khoảng 20 triệu người, nhưng đến năm 2010 thì có gần 100 triệu. Nước Trung Hoa thì tăng từ bốn, năm trăm triệu đến ngoài 1.3 tỷ người. Ở Hoa Kỳ cũng thế, năm 1975 dân số chỉ có khoảng 200 triệu mà ngày nay sau 35 năm đã tăng lên trên 350 triệu. Nói chung khắp nơi trên thế giới, nước nào dân số cũng tăng vọt. Nếu lý luận theo tư tưởng thường kiến là khi một người chết thì linh hồn vẫn tồn tại để nhập vào và tái sinh thành một con người mới, vậy nếu có một triệu người chết mà lại sinh ra thêm 100 triệu người mới thì tư tưởng thường kiến giải thích hiện tượng này như thế nào? Linh hồn mới ở đâu mà nhập vào để tăng vọt dân số nhanh như vậy? Phật giáo hoàn toàn phủ nhận tư tưởng thường kiến vì không có một linh hồn nào tồn tại sau khi chết cả, hay nói cách khác trong Phật giáo không có cái gì gọi là linh hồn.

Cái mà con người lầm lẫn gọi là linh hồn thì thật ra chỉ là những chuỗi thức kết nối liên tục trong cuộc sống. Chuỗi thức cuối cùng trước khi chết sẽ kết nối với thức đầu tiên của đời sống mới và cứ như vậy mà tiếp diễn không ngừng từ đời này sang đời khác. Nhưng trong không gian, kiến đại và thức đại lúc nào và ở nơi nào cũng có, trùm khắp pháp giới, vì thế khi nhân duyên hội tụ đầy đủ dựa theo nghiệp lực của họ thì thất đại hòa nhập mà kiến tạo nên con người. Nói cách khác nếu có bao nhiêu con người sinh ra thì kiến đại, thức đại tác động vào mà kiến tạo để cho con người có đầy đủ kiến, văn, giác, tri. Kiến, văn, giác, tri là cánh cửa của lục căn (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý) của con người tức là mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc, ý biết Lục căn chia làm 4 bộ : Kiến thuộc về mắt, văn thuộc về tai, giác thuộc về mũi, nếm thuộc về thân, tri thuộc về ý.

Trong Bát Nhã tâm kinh đã giải thích rõ ràng rằng : “sắc tức là không, không tức là sắc…thức tức là không, không tức là thức” vì thế thân xác (sắc) khi sống (tức) là không vì tự nó không có tự thể và khi chết thì cũng từ cái không ấy lại tác tạo để hình thành cái thân xác (sắc) khác. Thức cũng vậy khi sống thì thức (tức) là không vì thức là huyển hóa, không thật, nhưng khi chết rồi thì thức (không) trong không gian lại tác động vào thân xác mới để có đủ những đức tính thấy, nghe, hay, biết (thức) của một con người. Chỉ có tư tưởng thâm sâu trong kinh Lăng Nghiêm mới giúp chúng sinh thấu hiểu rõ ràng việc kiến tạo hình thành chẳng những cho con người mà còn áp dụng cho tất cả nhân sinh vũ trụ.

PHẬT CHỈ NGUỒN GỐC VỌNG TƯỞNG CỦA HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ


Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo ông Phú Lâu Na và các đại A la hán rằng :


- Nay Như Laiđại chúng chỉ bày tánh chơn thắng nghĩa trong thắng nghĩa, khiến cho hàng định tánh Thanh văn chưa được nhơn không và pháp không, hướng về Đại Thừa. Các ông hãy lắng nghe cho kỹ, tôi sẽ vì đại chúng mà nói. Phật dạy :


- Phú Lâu Na! Như ông vừa nói : Đã là bản nhiên thanh tịnh tại sao bỗng nhiên lại sinh ra ấm, nhập, xứ, giới núi sông đất liền sum la vạn tượng? Ông có nghe Như Lai đã từng dạy : ”Tánh giác là diệu minh, bản giác là minh diệu hay không?


- Bạch Thế Tôn! Con đã nghe, Phú Lâu Na thưa.


- Ý ông hiểu thế nào? Tánh giác tự minh mà gọi là giác hay tánh giác không minh phải dùng tánh minh để minh tánh giác?
Ngài Phú Lâu Na bạch với Phật :


- Bạch Thế Tôn! Tánh giác tự minh nên gọi là tánh giác diệu minh. Nếu tánh giác không minh thì còn lấy gì để gọi là minh tánh giác.
Phật dạy rằng :


- Đúng vậy. Phú Lâu Na! Nếu tánh giác không tự minh thì không lấy cái gì để minh tánh giác. Và nếu tánh giác là cái sở minh thì không còn gọi là tánh giác nữa. Vậy ông nên hiểu : Tánh giác vốn minh mà chúng sinh lầm tưởng phải nhờ cái minh để minh tánh giác. Sự thật tánh giác vốn không phải là cái sở minh. Nhân vì lầm tưởng mà tánh giác trở thành ra sở. Cái vọng về sở đã thành, tất cái vọng năng của ông. Nguồn gốc của vọng tưởng phát nguyên là như vậy.


Đức Phật muốn xiễn dương một chân lý mới mà các vị A la hán chưa thấu suốt. Thắng nghĩa còn được hiễu là liễu nghĩa. Dựa theo Thành Duy Thức luận, tất cả lời Phật dạy đều là thắng nghĩa, tuy nhiên trong các thắng nghĩa cũng có cao có thấp và được chia ra làm bốn loại:


1) Thế gian thắng nghĩa là phân tích ra 5 uẩn, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới, 7 đại…


2) Đạo lý thắng nghĩa dạy về Tứ Diệu Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).


3) Chứng đắc thắng nghĩa dạy về Nhị Không Chân Như nghĩa là phá trừ chấp ngã chấp pháp mà chứng được chân như.


4) Thắng nghĩa thắng nghĩa dạy về Nhất chân pháp giới tức là Đệ nhất nghĩa đếĐức Phật đang chỉ dạy trong đoạn kinh này.

 

Cũng trong Duy thức luận, có năm lớp quán, từ địa vị tư lương là:

Nải chí vị khởi thức
Cầu trụ duy thức cảnh
Ư nhị thủ tùy miên
Du vị năng phục diệt


Nghĩa là từ khi chúng sinh chưa biết tu hành đến khi tu theo duy thức mà vẫn còn hai món thủ trong tâm trí, chưa hóa giải hết được là năng thủ tức là chấp ngã đối với mình và sở thủ tức là quan niệm chấp pháp đối với vạn vật thì người tu như vậy gọi là tu “Du vị”.

 

Bài quán cho địa vị gia hành kế tiếp:


Hiện tiền lập thiểu vật
Vị thị duy thức tánh
hữu sở đắc cố
Phi thật trụ duy thức


Nếu người tu theo duy thức mà còn thấy có mục tiêu để mong đạt đến để viên thành Phật tánh của duy thức thì không bao giờ tu thành duy thức được vì lòng còn mong mỏi tức là tâm vẫn còn tham.

Bài quán thứ ba là :

Nhược thời ư sở duyên
Trí đô vô sở đắc
Nhỉ thời trụ duy thức
Ly nhị thủ tướng cố.


Nghĩa là khi nào chúng sinh nhìn sự vật hiện tượng vạn pháp (sở duyên) tức là đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì thấy, nghe, ngửi, biết tất cả mà như là không thấy biết gì hết thì mới tu thành tựu theo duy thức được bởi vì chính họ đã xa lìa được hai chấp: chấp ngãchấp pháp.

 

Bái quán thứ thư là:

Vô đắc bất tư nghì
Thị xuất thế gian trí
Xả nhị thô trọng cố
Tiện chứng đắc chuyển y.


Nghĩa là bất cứ chúng sinh nào mà tu hành đến chỗ không còn thấy mình chứng đắc gì hết thì người đó mới đạt được cái trí xuất thế gian. Nhưng thế nào là vô đắc? Trên phương diện tu hành, người đệ tử Phật làm tất cả điều thiện, lìa xa tất cả những điều ác mà thấy mình chả có chứng đắc, công đức, phước đức gì hết. Trên phương diện độ sanh, người đệ tử Phật độ cho tất cả chúng sinh mà thấy chẳng có chúng sinh nào được mình độ nghĩa là thi ân bất cầu báo vậy. Trong Bát nhã tâm kinh cũng xác định rằng : “Dĩ vô sở đắc cố” nghĩa là không có cái gì gọi là chứng đắc cả. Cái thanh tịnh Niết bàntrí tuệ Bồ-đề vốn đã có sẵn trong tất cả mọi chúng sinh, nhưng vì bị vô minh che lấp nên con người không thấy biết vậy thôi. Nay nếu chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, quay thuyền trở lại bến xưa thì Niết bàn hiển lộ, Bồ-đề phát hiện chứ đâu có chứng đắc cái gì mà cầu với mong.


Hai câu sau nghĩa là nếu chúng sinh có thể lìa được hai chướng là phiền não chướngtri kiến chướng (thô trọng) thì có Niết bàn, có Bồ-đề. Nói cách là chúng sinh chuyển phiền não thành Niết bàn, chuyển vô minh, sinh tử thành trí tuệ Bồ-đề.

 

Bài quán thứ năm là :


Thử tức vô lậu giới
Bất tư nghì thiện tường
An lạc giải thoát thân

Đại mâu ni thanh pháp.

bài kệ sau cùng là :


Thử chư pháp thắng nghĩa

Diệc tức thị chân như

Thường như kỳ tánh cố

Tức duy thức thật tánh.


Sau cùng người đệ tử Phật hiểu thấu suốt được như vậy thì mới hiểu được thắng nghĩa tức là chân lý tột cùng của vạn pháp. Hiểu được như vậy cũng có nghĩa là hiểu được lý chân như, tánh thường như của vạn phápthật tánh của duy thức. Thật vậy, trong Đệ nhất nghĩa đế thì tất cả các pháp, dù thánh hay phàm, đều là bình đẳng bởi vì hiện tượng vạn pháp cùng chung một bản thể Như Lai Tạng.


Người đệ tử Phật nếu có niệm viễn ly để buông xả thì chính họ có được an vui, thanh thoảng và tự tại. Mà muốn đạt đến trình độ này thì họ phải phá chấp ngã và chấp pháp để có được nhơn không và pháp không. Nhơn không có nghĩa là thấy mình không thật nên không tham ái mà khổ vì thân. Còn pháp khôngnhận biết thế gian vũ trụ cũng là không thật, có đó rồi mất đó nên tâm không dính mắc. Khi chúng sinh đã có được nhân khôngpháp không rồi thì bây giờ chỉ có một con đường duy nhất để hoàng thành Phật đạonhất thừa Phật giáo cũng như trăm sông cùng đổ về biển lớn như Phật đã thuyết trong kinh Pháp Hoa.


Vậy thế nào là tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu?


Tất cả chúng sinh từ loài hữu tình đến vô tình đều có chung tự tánh thanh tịnh bản nhiên mà nhà Phật gọi là tánh giác. Tánh giác mà tác động vào con người thì gọi là Phật tánh, còn tác động vào các loài vô tình như cỏ cây, hoa lá thì gọi là Pháp tánh. Thế thì từ con người cho đến đất, nước, cây, cỏ, núi cao, rừng thẳm đều cùng có tự tánh thanh tịnh như nhau, không có cái gì gọi là tội lỗi, phiền não, khổ đau cả. Nguyên nhân mà có phiền não là do cái nhìn, thấy, biết chứa đầy vọng niệm mà nhìn với tâm phân biệt. Nói cách khác con mắt của mình là năng phân biệt để nhìn đối tượng là sở phân biệt. Đây chính là do vọng mà sinh ra năng và sở. Thí dụ như tất cả con người ai ai cũng đều là do thất đại hội tụ lại mà thành nghĩa là bất cứ con người nào cũng đều có địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức (thất đại) giống như nhau cho nên không có con người nào có tội lỗi hay phiền não chi cả.

Còn vạn pháp trong thế gian thì cũng được kết thành bởi địa, thủy, hỏa, phong, không (ngũ đại) thì đâu có cái gì tự nó có phiền não hay tội lỗi chi. Nhưng khi mắt thấy hoa đẹp, nhà sang, xe tốt làm tâm phân biệt mà có sự lấy hay bỏ, thích hay không thích, thương hay ghét. Đây là do vọng niệm phân biệt phát khởi và là nguyên nhân gây ra mọi phiền não, khổ đau của con người. Cái mà con người cho rằng tội lỗi xấu xa là do cái nhìn có vô minh, tham đắm của mình mà ra. Khi vọng niệm phát khởi phân biệt thì nhìn cái gì cũng mê, cũng thích, cũng muốn chiếm lấy thì đây chính là vẫn đục đeo trước con mắt khiến con người nhìn thế gian là bất toàn, khổ não. Nhưng nếu bây giờ lấy cái vẫn đục kia đi và cũng nhìn cái thế gian đó với tâm trong sáng, thanh tịnh thì cái tội lỗi khổ đau kia biến mất và thế giới biến thành an vui, cực lac. Vậy ai cột trói mình? Chính mình tự cột trói lấy mình, tự mình chuốc lấy bao hệ lụy của phiền não khổ. Bỏ vọng chấp thì có cuộc sống an vui tự tại nghĩa là tự mình không trói mình thì cần gì phải cởi trói.


Tánh giác vốn minh chớ không cần phải nhờ cái minh bên ngoài tức là sở minh để minh (nhận biết các sự vật của) tánh giác nghĩa là tánh giác vốn trong sáng thanh tịnh, thường diệu, thường minh nên gọi là tánh giác diệu minh. Nhưng khi con người lầm lẫn chạy theo vọng chấp nghĩa là sở minh bên ngoài để chuyển năng minh bên trong của mình mà có sự phân biệt để tạo nghiệp và tự trói mình trong sinh tử khổ đau. Khi chúng sinh biết hồi đầu thị ngạn, quay thuyền trở lại bến xưa thì tánh giác bây giờ trở thành bản giác nghĩa là giác tánh bản lai sẳn có của mình. Bản giác ấy thường minh và thường diệu, nhưng trong bản giác, minh và diệu luôn luôn hợp với nhau chớ không tách rời như trong lúc phát khởi vọng thức mê lầm ở trên. Vì thế mới gọi là bản giác minh diệu. Nói cách khác, Phật tánh có ba, đó là chánh nhân, duyên nhânliễu nhân. Trong mỗi chúng sinh, tánh mầu nhiệm sẳn có vốn tự viên thành, không nhờ vào công phu tu tập nên gọi là chánh nhân. Bây giờ, nếu chúng sinh phải nhờ minh sư, hay thiện tri thức khai phát thì Phật tánh mới hiện bày, đây là nhờ duyên khởi nên gọi là duyên nhân. Sau cùng nhờ công phu tu tập rồi mới ngộ nên gọi là liễu nhân. Do đó tánh giác diệu minh chính là Chánh Nhân Phật tánh. Còn bản giác minh diệu là Liễu Nhân Phật tánh vậy.


Đã là tánh giác diệu minh, bản giác minh diệu thế nhưng tại sao con người có thể bị mất đi cái đó để rồi phải chuốc lấy phiền não khổ đau mà chìm đắm trong sinh tử luân hồi?


Phật dạy rằng tánh giác tất minh, vọng vi minh giác nghĩa là do vọng tưởng phát khởi mà sinh ra phân biệt rồi chấp mắc hiện tượng vạn hữu. Cái phân biệt của con người trở thành năng minh để chống lại cái tánh giác diệu minh của hiện tượng vạn phápchấp thủ sai lầm về cái bản giác minh diệu của chính mình. Do vọng tưởng sai lầm đó mà dẫn đến những nhận thức sai lầm để có mừng, giận, thương, yêu, sợ, ghét… Đây là những khách trần phiền não, có đến có đi, nhưng con người lại mở toan sáu căn (năng minh) mà đón mời nó vào để nó luôn chiếm ngự ở mãi lòng ta. Nói cách khác, vạn pháp vốn thanh tịnh, lục trần vốn thanh tịnh, lục căn vốn thanh tịnh, nhưng con người lấy lục căn phân biệt lục trần cho nên lục trần bây giờ trở thành đối tượng bị phân biệt tức là sở minh và lục căn biến thành năng minh. Mà đã có năng có sở nghĩa là có sự phân biệt đối đãi và đó là nguyên nhân của phiền não khổ đau.


Tánh giác nhất định phải là diệu minh chớ không cần nhờ vào Minh để làm sáng tỏ. Còn Vọng là minh giác nghĩa là vừa dấy động một niệm sở minh thì chính mình đã đánh mất tánh giác diệu minh rồi. Tánh giác thì bao trùm khắp pháp giới vốn không có năng minh, không có sở minh, không có năng giác, không có sở giác, nhưng vì do vọng chấp mê lầm mà mình cho rằng mình có năng giác còn đối tượng bên ngoài có sở giác. Khi có sự thiết lập của năng và sở tức là trong và ngoài thì sự phân biệt đối đãi hình thành và dĩ nhiên vọng niệm cũng phát khởi từ đây. Thí dụ như khi quán chiếu thấy tượng Phật bên ngoài tức là sở minh thì chúng ta dùng hình ảnh Đức Phật bên ngoài mà xoay lại để thấy được Phật tánh bên trong của mình tức là năng minh. Còn nếu chạy theo hình tượng Phật bên ngoài mà quên đi Phật tâm, Phật tánh thanh tịnh, bất sinh bất diệt của chính mình thì chúng ta chạy theo sở minh mà quên bỏ năng minh vậy.


Đây là nguyên nhân của phiền não khổ đau. Vì thế tánh giác vốn tự minh tự diệu, không có gì đáng gọi là sở minh. Nhưng do vọ mà giả dối lập ra sở minh và đối đãi phân biệt sinh ra cái năng minh của chúng sinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29889)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27171)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21764)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20427)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24740)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23981)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27760)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21300)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23215)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38119)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19951)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19038)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22786)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22906)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29562)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20634)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18848)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19648)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20148)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19950)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22919)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34163)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16410)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39235)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26057)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20095)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18844)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24051)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29109)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30943)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21000)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20672)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26250)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19816)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30025)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20215)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15143)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15826)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23867)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant