Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giáo pháp Thời Luân không biện hộ hay tiên đoán một thế giới quyết chiến giữa thiện và ác

08 Tháng Tư 201100:00(Xem: 22570)
Giáo pháp Thời Luân không biện hộ hay tiên đoán một thế giới quyết chiến giữa thiện và ác

GIÁO PHÁP THỜI LUÂN KHÔNG BIỆN HỘ HAY TIÊN ĐOÁN
MỘT THẾ GIỚI QUYẾT CHIẾN GIỮA THIỆN VÀ ÁC

Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

blankGiáo Pháp Tương Tục [1] hay tantra cao nhất của Đạo Phật, Mật Điển Du Già Tối Thượng [2], dạy những phương pháp thiền quán song song với tiến trình của sự chết và tái sinh nhằm để thâm nhập trình độ vi tế nhất của tâm thức, trình độ Linh Quang biểu hiện một cách tự nhiên tại thời điểm lâm chung. Qua việc sử dụng trình độ đặc biệt này của tâm thức để đạt đến sự tỉnh thức an lạc vô phân biệt về tính không, hành giả xa lìa vĩnh viễn sự tương tục bất giác tinh thần, những cảm xúc phiền não, năng lực của nghiệp báo, và những khuynh hướng cùng thói quen của tất cả những điều này. Trong việc hoàn thành điều này, hành giả đạt đến sự chấm dứt thật sự những năng lựcnguyên nhân đưa đến sự lưu chuyển không thể kiểm soát của những sự chết và tái sinh phàm tình của họ, và vì thế đạt được sự giải thoátgiác ngộ vì thế các vị ấy có thể làm lợi ích hữu hiệu nhất cho mọi người.

Hệ thống Bí Mật Tập Hội [3] của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng [4] cũng bao hàm trình độ vĩ mô vũ trụ song song đến những phương pháp thiền quán cho việc thâm nhập vào tâm linh quang. Nó thự hiện sự liên hệ đến những vòng tuần hoànvũ trụ trải qua một cách định kỳ, với sự tái diễn không thể kiểm soát của tan rã (hoại), thời điểm trỗng rỗng (không), tiến triển (thành), và chịu đựng (trụ), tương tự đến những gì mà những chúng sinh bất toàn trãi qua với những sự tái diễn không thể kiểm soát của chết, thời điểm trung ấm thân, tái sinh, và thọ mạng của đời sống. Những sự thực hành thiền quán giải thoát hành giả khỏi sự khống chế không chỉ những chu kỳ tái diễn nội tại của chết, tái sinh, mà cũng tự do với những vòng tuần hoàn tương ứng ngoại tại của vũ trụ.

Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại. Nhằm để làm cho tiến trình tịnh hóa có thể hoàn thành trọn vẹn, hệ thống này trình bày một kiểu mẫu thiên văn học ngoại tại và những chu kỳ thiên văn, nhưng cũng đặt song song những thực hành thiền tập đặt biệt của nó. Vì cùng mục tiêu tính chất bao gồm, hệ thống cũng trình bày một hình ảnh bố trí đặc biệt của lịch sử, địa lý, và sinh lý học tương tự song song với cấu trúc này, nhưng điều ấy, do bởi đồ án có ý thức của nó, khác biệt với hình ảnh được trình bày trong những kinh luận Phật Giáo khác. Bằng việc thấu hiểu tất cả những hướng dẫn tương ứng này – và những cấu trúc vĩ mô xảy ra dưới ảnh hưởng của con ngườinghiệp nhân, hành giả tiếp nhận sự thiền quán Thời Luân tương ứng nhằm để tịnh hóa sự tương tục tâm linh nghiệp báo của họ và đạt đến giải thoát cùng giác ngộ. Do vậy, khuynh hướng căn bản của sự thực hành Giáo Pháp Thời Luân không khác với những hệ thống Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng.

Nhằm để làm cho sự trình bày của những thực hành thiền quán cho việc vượt thắng vô minh si ám và những cảm xúc phiền não hoang dã khơi dậy nghiệp chướng cần được tịnh hóa, Giáo Pháp Thời Luân thêm vào hình ảnh minh họa những chu kỳ diễn tả lịch sử của những đấng cứu thể chân chínhsai lạc, những sự xâm phạm Bạch Ngọc Cung (Shambhala), những chiến trận khải huyền, và những thời đại hoàng kim mới. Sự trình bày lịch sử này minh họa trên những đặc trưng của chính trị, sự kiện, và những tín ngưỡng tôn giáo – đạo đa thần phổ biến và những quan tâm về thời gian và địa điểm thể hiện trong văn học Thời Luân, đấy là vào đầu thế kỷ thứ mười Tây Lịch trong khu vực giữa miền Đông A Phú Hản và Kashmir.

Điều quan trọng để đánh giá sự kiện rằng văn kiện Giáo Pháp Thời Luân đã thiết lập một cách có ý thức những minh họa lịch sử phù hợp với cấu trúc của sự thực tập thiền quan. Do thế, sự dự đoán và một chiến trận quyết liệt tương lai giữa thiện và ác [5] xảy ra 1.800 năm sau việc tìm ra hệ thống tín ngưỡng của những năng lực xâm phạm, đại diện của vô minh si ám, tương đương:

1. 1.800 hơi thở xãy ra trong mỗi 12 thời điểm hoàng đạo[6] tượng trưng của một ngày.
2. 1.800 hơi thở đi chính yếu qua chóp mũi trong 12 thời điểm luân phiên của một ngày, trong ấy chính yếu thổi hơi thở luân phiên từ lỗ mũi này sang lỗ mũi kia.
3. 1.800 hơi thở thổi qua mỗi 12 kinh mạch hoàng đạo tượng trưng của luân xa rốn trong tiến trình một ngày.
4. 1.800 giờ chiêm tinh trong mỗi 12 tháng âm lịch, mỗi tháng có 30 ngày, trong mỗi ngày có 60 giờ chiêm tinh.
5. 1.800 phút trong 30 độ của mỗi 12 biểu tượng của hoàng đạo, mà trong mỗi độ có 60 phút.
6. 1.800 năm của sự rộ nở Giáo Huấn Thời Luân trong ‘lục địa’ của chúng ta sau chiến trận khải huyền [7].
7. 1.800 năm mà Giáo Huấn Thời Luân sẽ rộ nở sau đó trên mỗi 11 ‘lục địa’ khác trong sự trình bày địa lý của Giáo Pháp Thời Luân.
8. 1.800 hạt năng lượng hạt nguyên sơ sắp xếp trong mỗi khu vực của 12 khu vực thuộc kinh mạch năng lượng trung ương trong thời điểm của 12 cấp độ tâm thức của Bồ Tát địa.
9. 1.800 thời khắc không thay đổi của kinh nghiệm tỉnh thức an lạc trên căn bản của mỗi mỗi nhóm này của 1.800 hạt.
10. 1.800 khí năng lượng của nghiệp báo được chấm dứt và 1.800 khía cạnh của thói quen nghiệp báo được loại trừ bằng phương tiện của mỗi nhóm của 1.800 thời khắc của sự an lạc tỉnh thức không thay đổi của tính không.

Hơn thế nữa, mỗi khu vực chiến trận của những lực lượng xâm lược và phản công chiến thắng có một sự tương ứng với một hay những khía cạnh của vô minh si ám và lực lượng phản công của tuệ trí. Thế thì rõ ràng, hình ảnh lịch sử được trình bày trong văn học Thời Luân chưa bao giờ có khuynh hướng như một tuyên bố chính sách chính trị xã hội của Đạo Phật. Phải thừa nhận rằng, một ít trường hợp hiếm hoi đã từng xãy ra mà trong ấy một số lĩnh đạo quân sự của Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ, Liên Bang Xô Viết, và Đế Quốc Nhật Bản đã khám phá những chủ đề trong hình tượng này cho mục tiêu chính trị. Nhưng những sự lạm dụng này bị căn cứ trên sự thấu hiểu sai lạc xu hướng của Giáo Huấn Thời Luân. Người ta không chứng minh rằng một việc thực hiện sự thấu hiểu sai lạc tương tự có bao giờ xãy ra, hiện tại, hay sẽ là chương trình chính trị của những Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Đưa đến kết luận như vậy là một sai lầm luận lý (logic) như kết luận rằng sự khởi đầu một cuộc Viễn Chinh thánh chiến hay Tòa Án Dị Giáo là chính sách thông thường của Giáo Hội Thiên Chúa (Christian Church).

Đối thoại và thấu hiểu liên tôn giáo, tốt hơnnghi ngờ sai lầm và mất niểm tin, là cần thiết cho việc nuôi dưỡng hòa bình thế giới. Ban pháp khai tâm Thời Luân là một cống hiến của Đạo Phật đến chương trình quan trọng vô cùng này và chắc chắn không là một tiến trình bổ sung cho một cuộc thánh chiến Phật Giáo. Nó đưa con người của những niềm tin khác biệt và tín ngưỡng trần gian kết hợp với nhau trong một không khí hòa bình cho một sự tái khẳng định chí nguyện đạo đức của con người để phản công vô minh si ámthành kiến với sự thông hiểutôn trọng hổ tương.


[*] Giáo Pháp Thời Luân: Kalachakra
[1] Giáo Pháp Tương Tục: Tantra – thuật ngữ Tantra có nghĩa là tương tục, tinh thần tương tục, đời sống tương tục- “Tiếp theo là Mật thừa, là điều mà tôi cho rằng có một số liên hệ đến lần chuyển pháp luân thứ ba. Từ ngữ ‘tantra’ có nghĩa là ‘sự tương tục’. Mật Điển Du-già có tên gọi là Trang Nghiêm Kim Cương Tâm Yếu Mật Điển giải thích rằng giải thích rằng tantra là một sự tương tục được định nghĩa là sự tương tục của tâm thức. Trên căn bản của tâm thức này, mà với cấp độ phát khởi chúng ta phạm phải những hành vi tiêu cực, như một kết quả của những điều đó, chúng ta trải qua vòng luân hồi tàn bạo của sinh tử. Trên con đường tâm linh, cũng trên căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng ta có thể tạo nên những sự cải thiện tinh thần, trải nghiệm những nhận thức cao thượng của đạo pháp và v.v… Nó cũng là căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng tathể đạt đến thể trạng toàn giác [nhất thiết trí]. Do thế, sự tương tục này của tâm thức luôn luôn hiện diện, đấy là ý nghĩa của tantra hay sự tương tục.” – Lần Chuyển Pháp Luân Thứ Ba – TỔNG QUAN VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG. http://www.hoavouu.com/D_1-2_2-230_4-3860_5-75_6-1_17-165_14-1_15-2/
[2] Anuttarayoga
[3] Guhyasamaja
[4] Tantra Yoga Tối Thượng – Anuttarayoga tantra
[5] Armageddon battle
[6] zodiac
[7] the apocalyptic battle

Kalachakra Does Not Advocate or Predict an Actual World Armageddon
Tác giả: Alexander Berzin, March 2008
Ẩn Tâm Lộ ngày 04/12/2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/advanced/kalachakra/kalachakra_world_peace/kc_not_advocate_predict_armageddon.html
→ Read the full story |
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13745)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25460)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13826)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15162)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17763)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17149)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14264)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13247)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14496)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19833)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16803)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18693)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19129)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18945)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21210)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14834)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39224)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19454)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14774)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16197)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14755)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15266)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14977)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15611)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39237)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14185)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24598)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14452)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18084)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21520)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19739)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17580)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14896)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13954)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13822)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14182)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21966)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16795)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15276)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14599)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14115)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14400)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15719)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14370)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15092)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18627)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24727)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23163)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28630)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15104)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14160)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14717)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18381)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26581)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15255)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14897)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15248)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15226)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant