Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giáo pháp Thời Luân không biện hộ hay tiên đoán một thế giới quyết chiến giữa thiện và ác

08 Tháng Tư 201100:00(Xem: 22530)
Giáo pháp Thời Luân không biện hộ hay tiên đoán một thế giới quyết chiến giữa thiện và ác

GIÁO PHÁP THỜI LUÂN KHÔNG BIỆN HỘ HAY TIÊN ĐOÁN
MỘT THẾ GIỚI QUYẾT CHIẾN GIỮA THIỆN VÀ ÁC

Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

blankGiáo Pháp Tương Tục [1] hay tantra cao nhất của Đạo Phật, Mật Điển Du Già Tối Thượng [2], dạy những phương pháp thiền quán song song với tiến trình của sự chết và tái sinh nhằm để thâm nhập trình độ vi tế nhất của tâm thức, trình độ Linh Quang biểu hiện một cách tự nhiên tại thời điểm lâm chung. Qua việc sử dụng trình độ đặc biệt này của tâm thức để đạt đến sự tỉnh thức an lạc vô phân biệt về tính không, hành giả xa lìa vĩnh viễn sự tương tục bất giác tinh thần, những cảm xúc phiền não, năng lực của nghiệp báo, và những khuynh hướng cùng thói quen của tất cả những điều này. Trong việc hoàn thành điều này, hành giả đạt đến sự chấm dứt thật sự những năng lựcnguyên nhân đưa đến sự lưu chuyển không thể kiểm soát của những sự chết và tái sinh phàm tình của họ, và vì thế đạt được sự giải thoátgiác ngộ vì thế các vị ấy có thể làm lợi ích hữu hiệu nhất cho mọi người.

Hệ thống Bí Mật Tập Hội [3] của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng [4] cũng bao hàm trình độ vĩ mô vũ trụ song song đến những phương pháp thiền quán cho việc thâm nhập vào tâm linh quang. Nó thự hiện sự liên hệ đến những vòng tuần hoànvũ trụ trải qua một cách định kỳ, với sự tái diễn không thể kiểm soát của tan rã (hoại), thời điểm trỗng rỗng (không), tiến triển (thành), và chịu đựng (trụ), tương tự đến những gì mà những chúng sinh bất toàn trãi qua với những sự tái diễn không thể kiểm soát của chết, thời điểm trung ấm thân, tái sinh, và thọ mạng của đời sống. Những sự thực hành thiền quán giải thoát hành giả khỏi sự khống chế không chỉ những chu kỳ tái diễn nội tại của chết, tái sinh, mà cũng tự do với những vòng tuần hoàn tương ứng ngoại tại của vũ trụ.

Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại. Nhằm để làm cho tiến trình tịnh hóa có thể hoàn thành trọn vẹn, hệ thống này trình bày một kiểu mẫu thiên văn học ngoại tại và những chu kỳ thiên văn, nhưng cũng đặt song song những thực hành thiền tập đặt biệt của nó. Vì cùng mục tiêu tính chất bao gồm, hệ thống cũng trình bày một hình ảnh bố trí đặc biệt của lịch sử, địa lý, và sinh lý học tương tự song song với cấu trúc này, nhưng điều ấy, do bởi đồ án có ý thức của nó, khác biệt với hình ảnh được trình bày trong những kinh luận Phật Giáo khác. Bằng việc thấu hiểu tất cả những hướng dẫn tương ứng này – và những cấu trúc vĩ mô xảy ra dưới ảnh hưởng của con ngườinghiệp nhân, hành giả tiếp nhận sự thiền quán Thời Luân tương ứng nhằm để tịnh hóa sự tương tục tâm linh nghiệp báo của họ và đạt đến giải thoát cùng giác ngộ. Do vậy, khuynh hướng căn bản của sự thực hành Giáo Pháp Thời Luân không khác với những hệ thống Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng.

Nhằm để làm cho sự trình bày của những thực hành thiền quán cho việc vượt thắng vô minh si ám và những cảm xúc phiền não hoang dã khơi dậy nghiệp chướng cần được tịnh hóa, Giáo Pháp Thời Luân thêm vào hình ảnh minh họa những chu kỳ diễn tả lịch sử của những đấng cứu thể chân chínhsai lạc, những sự xâm phạm Bạch Ngọc Cung (Shambhala), những chiến trận khải huyền, và những thời đại hoàng kim mới. Sự trình bày lịch sử này minh họa trên những đặc trưng của chính trị, sự kiện, và những tín ngưỡng tôn giáo – đạo đa thần phổ biến và những quan tâm về thời gian và địa điểm thể hiện trong văn học Thời Luân, đấy là vào đầu thế kỷ thứ mười Tây Lịch trong khu vực giữa miền Đông A Phú Hản và Kashmir.

Điều quan trọng để đánh giá sự kiện rằng văn kiện Giáo Pháp Thời Luân đã thiết lập một cách có ý thức những minh họa lịch sử phù hợp với cấu trúc của sự thực tập thiền quan. Do thế, sự dự đoán và một chiến trận quyết liệt tương lai giữa thiện và ác [5] xảy ra 1.800 năm sau việc tìm ra hệ thống tín ngưỡng của những năng lực xâm phạm, đại diện của vô minh si ám, tương đương:

1. 1.800 hơi thở xãy ra trong mỗi 12 thời điểm hoàng đạo[6] tượng trưng của một ngày.
2. 1.800 hơi thở đi chính yếu qua chóp mũi trong 12 thời điểm luân phiên của một ngày, trong ấy chính yếu thổi hơi thở luân phiên từ lỗ mũi này sang lỗ mũi kia.
3. 1.800 hơi thở thổi qua mỗi 12 kinh mạch hoàng đạo tượng trưng của luân xa rốn trong tiến trình một ngày.
4. 1.800 giờ chiêm tinh trong mỗi 12 tháng âm lịch, mỗi tháng có 30 ngày, trong mỗi ngày có 60 giờ chiêm tinh.
5. 1.800 phút trong 30 độ của mỗi 12 biểu tượng của hoàng đạo, mà trong mỗi độ có 60 phút.
6. 1.800 năm của sự rộ nở Giáo Huấn Thời Luân trong ‘lục địa’ của chúng ta sau chiến trận khải huyền [7].
7. 1.800 năm mà Giáo Huấn Thời Luân sẽ rộ nở sau đó trên mỗi 11 ‘lục địa’ khác trong sự trình bày địa lý của Giáo Pháp Thời Luân.
8. 1.800 hạt năng lượng hạt nguyên sơ sắp xếp trong mỗi khu vực của 12 khu vực thuộc kinh mạch năng lượng trung ương trong thời điểm của 12 cấp độ tâm thức của Bồ Tát địa.
9. 1.800 thời khắc không thay đổi của kinh nghiệm tỉnh thức an lạc trên căn bản của mỗi mỗi nhóm này của 1.800 hạt.
10. 1.800 khí năng lượng của nghiệp báo được chấm dứt và 1.800 khía cạnh của thói quen nghiệp báo được loại trừ bằng phương tiện của mỗi nhóm của 1.800 thời khắc của sự an lạc tỉnh thức không thay đổi của tính không.

Hơn thế nữa, mỗi khu vực chiến trận của những lực lượng xâm lược và phản công chiến thắng có một sự tương ứng với một hay những khía cạnh của vô minh si ám và lực lượng phản công của tuệ trí. Thế thì rõ ràng, hình ảnh lịch sử được trình bày trong văn học Thời Luân chưa bao giờ có khuynh hướng như một tuyên bố chính sách chính trị xã hội của Đạo Phật. Phải thừa nhận rằng, một ít trường hợp hiếm hoi đã từng xãy ra mà trong ấy một số lĩnh đạo quân sự của Cộng Hòa Nhân Dân Mông Cổ, Liên Bang Xô Viết, và Đế Quốc Nhật Bản đã khám phá những chủ đề trong hình tượng này cho mục tiêu chính trị. Nhưng những sự lạm dụng này bị căn cứ trên sự thấu hiểu sai lạc xu hướng của Giáo Huấn Thời Luân. Người ta không chứng minh rằng một việc thực hiện sự thấu hiểu sai lạc tương tự có bao giờ xãy ra, hiện tại, hay sẽ là chương trình chính trị của những Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Đưa đến kết luận như vậy là một sai lầm luận lý (logic) như kết luận rằng sự khởi đầu một cuộc Viễn Chinh thánh chiến hay Tòa Án Dị Giáo là chính sách thông thường của Giáo Hội Thiên Chúa (Christian Church).

Đối thoại và thấu hiểu liên tôn giáo, tốt hơnnghi ngờ sai lầm và mất niểm tin, là cần thiết cho việc nuôi dưỡng hòa bình thế giới. Ban pháp khai tâm Thời Luân là một cống hiến của Đạo Phật đến chương trình quan trọng vô cùng này và chắc chắn không là một tiến trình bổ sung cho một cuộc thánh chiến Phật Giáo. Nó đưa con người của những niềm tin khác biệt và tín ngưỡng trần gian kết hợp với nhau trong một không khí hòa bình cho một sự tái khẳng định chí nguyện đạo đức của con người để phản công vô minh si ámthành kiến với sự thông hiểutôn trọng hổ tương.


[*] Giáo Pháp Thời Luân: Kalachakra
[1] Giáo Pháp Tương Tục: Tantra – thuật ngữ Tantra có nghĩa là tương tục, tinh thần tương tục, đời sống tương tục- “Tiếp theo là Mật thừa, là điều mà tôi cho rằng có một số liên hệ đến lần chuyển pháp luân thứ ba. Từ ngữ ‘tantra’ có nghĩa là ‘sự tương tục’. Mật Điển Du-già có tên gọi là Trang Nghiêm Kim Cương Tâm Yếu Mật Điển giải thích rằng giải thích rằng tantra là một sự tương tục được định nghĩa là sự tương tục của tâm thức. Trên căn bản của tâm thức này, mà với cấp độ phát khởi chúng ta phạm phải những hành vi tiêu cực, như một kết quả của những điều đó, chúng ta trải qua vòng luân hồi tàn bạo của sinh tử. Trên con đường tâm linh, cũng trên căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng ta có thể tạo nên những sự cải thiện tinh thần, trải nghiệm những nhận thức cao thượng của đạo pháp và v.v… Nó cũng là căn bản của sự tương tục tâm thức mà chúng tathể đạt đến thể trạng toàn giác [nhất thiết trí]. Do thế, sự tương tục này của tâm thức luôn luôn hiện diện, đấy là ý nghĩa của tantra hay sự tương tục.” – Lần Chuyển Pháp Luân Thứ Ba – TỔNG QUAN VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG. http://www.hoavouu.com/D_1-2_2-230_4-3860_5-75_6-1_17-165_14-1_15-2/
[2] Anuttarayoga
[3] Guhyasamaja
[4] Tantra Yoga Tối Thượng – Anuttarayoga tantra
[5] Armageddon battle
[6] zodiac
[7] the apocalyptic battle

Kalachakra Does Not Advocate or Predict an Actual World Armageddon
Tác giả: Alexander Berzin, March 2008
Ẩn Tâm Lộ ngày 04/12/2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/advanced/kalachakra/kalachakra_world_peace/kc_not_advocate_predict_armageddon.html
→ Read the full story |
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11644)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11970)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11358)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12075)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12570)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10774)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17995)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9960)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10181)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15379)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12012)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12423)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11194)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12096)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10626)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12566)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13179)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12698)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16587)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19678)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13116)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13544)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11963)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11645)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14529)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12626)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15670)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13634)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11176)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9087)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12189)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10321)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12205)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16616)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14281)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19715)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24621)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10701)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant