Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Bất Tư Nghị

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 11068)
Chương 6: Bất Tư Nghị

Chương 6
BẤT TƯ NGHỊ
[1]

Bấy giờ, khi Xá-lợi-phất thấy trong thất này không có giường ghế gì, bèn nghĩ: «Các Bồ tátđại đệ tử sẽ ngồi ở đâu?» Trưởng giả Duy-ma-cật biết được ý nghĩ ấy, bèn hỏi Xá-lợi-phất: 

«Thưa ngài, nhân giả đến đây vì pháp, hay vì đi tìm giường ghế?» 

Xá-lợi-phất đáp: 

«Tôi đến đây vì Pháp, chẳng vì giường ghế.»

Duy-ma-cật nói: 

«Thưa ngài Xá-lợi-phất, người cầu Pháp ngay đến thân mạng còn không tham tiếc, huống hồ giường ghế. Vì rằng, cầu Pháp không phải là tìm cầu những gì là sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không phải là tìm cầu những gì là giới,[2] xứ;[3] không phải là tìm cầu những gì thuộc Dục, Sắc, Vô sắc.[4] 

«Thưa Xá-lợi-phất, người cầu Pháp không bám chấp Phật mà cầu, không bám chấp Pháp mà cầu, không bám chấp Tăng mà cầu.[5] Người cầu Pháp không phải để thấy khổ mà cầu, không đoạn trừ tập mà cầu, không chứng diệt mà cầu, không tu đạo mà cầu.[6] Vì sao vậy? Vì Pháp khônghý luận.[7] Vì nếu nói: «Tôi thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo,» thì chỉ là hý luận, không phải tầm cầu Pháp.

«Thưa Xá-lợi-phất, Pháp được gọi là tịch diệt.[8] Nếu hành nơi sinh diệt, đó là đi tìm cầu sự sinh diệt chứ không phải tìm cầu Pháp. Pháp được gọi là vô nhiễm.[9] Nếu tham nhiễm pháp, cho đến tham nhiễm Niết bàn, đó là nhiễm trước[10] chứ không phải tìm Pháp. Pháp không hành xứ.[11] Nếu hành nơi pháp, đó là hành xứ chứ không phải là sự cầu Pháp.[12] Pháp không thủ xả.[13] Nếu có thủ xả nơi pháp, đó là thủ xả chứ chẳng phải tìm Pháp. Pháp không xứ sở.[14] Nếu dính mắc xứ sở,[15] đó là sự dính mắc xứ sở chứ không phải tìm Pháp. Pháp được gọi là vô tướng. Nếu tùy theo tướng mà nhận thức,[16] đó là đi tìm cầu tướng chớ chẳng phải tìm cầu Pháp. Pháp không thể trụ.[17] Nếu trụ nơi pháp, đó là cầu trụ pháp chớ chẳng phải cầu pháp.[18] Pháp không thể được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận biết.[19] Nếu hành nơi sự thấy, nghe, cảm, biết; đó chỉ là thấy, nghe, cảm, biết chứ chẳng phải tìm cầu pháp. Pháp là vô vi.[20] Nếu hành nơi hữu vi, đó là cầu hữu vi chớ chẳng phải cầu pháp

«Cho nên, thưa ngài Xá-lợi-phất, cầu pháp là không cầu tìm bất cứ gì.»[21]

Khi nói xong lời này này, năm trăm chư thiên được sự thanh tịnh của con mắt pháp ở trong các pháp.[22]

Rồi trưởng giả Duy-ma-cật lại hỏi Văn-thù-sư-lợi: 

««Nhân giả đã chu du qua vô lượng a-tăng-kỳ quốc độ; ở cõi Phật nào có tòa sư tử được thành tựu với công đức vi diệu tối thượng tuyệt đẹp

Văn-thù-sư-lợi đáp: 

«Cư sĩ, ở phương đông có cõi Phật cách đây vô lượng nghìn vạn ức a-tăng-kỳ[23] thế giới bằng số cát của ba mươi sáu sông Hằng. Đó là cõi Tu-di-tướng.[24] Có Phật Tu-di Đăng Vương[25] hiện ở đó. Đức Phật ấy có cao 84.000 do-tuần[26] và bảo tòa sư tử của ngài cũng cao 84.000 do-tuần, được trang sức bậc nhất.»

Lúc ấy, trưởng giả Duy-ma-cật hiển hiện năng lực thần thông,[27] tức thì đức Phật kia khiến 32.000[28] tòa sư tử cao lớn, oai nghiêm, đến thẳng vào thất của Duy-ma-cật. Chư Bồ tát, đại đệ tử Phật, các Phạm thiên và bốn vị Thiên vương đều điều chưa từng trông thấy. Thất ấy trở nên rộng rãi, chứa hết 32.000 bảo tòa, không khuất lấp cái nào và cũng không làm chật hẹp thêm thành Tỳ-da-li, cõi Diêm-phù-đề và bốn thiên hạ

Đoạn Duy-ma-cật nói với Văn-thù-sư-lợi: 

«Xin mời chư vị ngồi vào tòa sư tử. Hãy cùng ngồi với các Bồ tát Thượng nhân.Các vị hãy tự lập thân mình tương xứng với tầm vóc của toà.»

Các vị Bồ tát đã đắc thần thông lực liền tự biến hình cao lớn 4 vạn 2 nghìn[29] do-tuần để ngồi vào tòa sư tử. Nhưng các Bồ tát sơ tâm[30] và chúng Đại đệ tử[31] không thể leo lên những bảo tòa cao lớn như vậy được.

Duy-ma-cật mới nói với Xá-lợi-phất: 

«Mời tôn giả ngồi lên toà sư tử

Xá-lợi-phất đáp: 

«Cư sĩ, tòa này cao rộng thênh thang, tôi không thể lên được.»

Duy-ma-cật bảo: 

«Thưa ngài Xá-lợi-phất, hãy đảnh lễ đức Như Lai Tu-di Đăng Vương thì sẽ ngồi lên được.»

Lúc ấy hết thảy chư Bồ tát sơ tâmĐại đệ tử đều cung kính đảnh lễ đức Như Lai Tu-di Đăng Vương và ngồi lên được các tòa sư tử.

Xá-lợi-phất nói với Duy-ma-cật: 

«Cư sĩ, thật là chưa từng có. Căn phòng nhỏ như vầy có thể chứa đủ các tòa cao rộng như vậy mà không che lấp thứ gì ở thành Tỳ-da-li, cũng không cản ngại bất cứ gì ở các thành phố, làng mạc của cõi Diêm-phù-đề và bốn thiên hạ cũng như các cung điện trời, rồng, quỷ thần

Duy-ma-cật đáp: 

«Vâng, thưa ngài Xá-lợi-phất, chư Phật và Bồ tát có môn giải thoát được gọi là bất khả tư nghị. Bồ tát tru nơi giải thoát này có thể đặt ngọn Tu-di hùng vĩ trong một hạt cải mà không hề thay đổi kích thước của hạt cải. Tướng trạng nguyên thuỷ của núi chúa Tu-di[32] vẫn như cũ. Bốn vị Thiên vương cùng với chư thiên Đao-lị[33] cũng không biết mình đã được đặt trong một hạt cải. Chỉ những ai cần được độ mới thấy Tu-di lọt vào trong hạt cải.[34] Đó là pháp môn giải thoát bất khả tư nghị.[35]

«Lại nữa, đem nước trong bốn đại dương đặt vào một lỗ chân lông mà chẳng khuấy động các loài tôm, cua, rùa, ca, các loại thuỷ tộc, mà bốn đại dương cũng y nguyên trạng khiến các rồng, quỷ thần, A-tu-la cũng chẳng biết mình đã được dời chỗ đem đặt vào một lỗ chân lông.

«Lại nữa, Xá-lợi-phất, Bồ tát trụ giải thoát bất khả tư nghị có thể đặt trong lòng bàn tay phải cả ba nghìn đại thiên thế giới, như người thợ gốm cầm cái bàn xoay,[36] và ném nó vượt qua Hằng hà sa số thế giớichúng sinh trong đó không hay không biết mình đang đi đâu; rồi thu về đặt lại chỗ cũ mà không khiến cho bất cứ ai có cảm tưởng đi và về.

«Lại nữa, Xá-lợi-phất, hoặc có chúng sinh chỉ có thể độ được nếu vui sướng với sự tồn tại lâu dài trong thế gian này, Bồ tát này có thể dùng thần lực của ngài kéo dài bảy ngày thành một kiếp khiến cho họ thấy là một kiếp. Hoặc có chúng không thích ở lâu trong thế giới này để đựơc độ, Bồ tát có thể rút ngắn một kiếp thành bảy ngày khiến cho chúng sinh ấy thấy chỉ là bảy ngày.

«Lại nữa, Xá-lợi-phất, Bồ tát đã trụ giải thoát bất khả tư nghị có thể thâu tóm tất cả mọi sự nghiệp trang nghiêm trong hết thảy cõi Phật tập họp về một cõi để mọi chúng sinh có thể nhìn thấy.

«Lại nữa, ngài có thể đặt hết thảy chúng sinh từ mọi cõi Phật trong lòng tay phải, rồi bay lượn[37] khắp mười phương cho mọi nơi đều được thấy mà không hề xao động bản xứ.

«Lại nữa, Xá-lợi-phất, Bồ tát này có thể chỉ trong một lỗ chân lông cho thấy hết thảy phẩm vật của chúng sinh trong mười phương quốc độ cúng dường chư Phật .

«Lại nữa, ngài có thể chỉ trong một lỗ chân lông cho thấy tất cả mặt trời, mặt trăng, tinh tú của hết thảy thế giới khắp mười phương.

«Lại nữa, ngài có thể hít một hơi hết thảy gió[38] của mười phương quốc độ mà không suy suyễn thân mình cũng chẳng rung gãy một cành cây.

«Lại nữa, khi mười phương thiên hạ kiếp tận[39] do lửa thiêu đốt, Bồ tát này có thể hít hết lửa vào bụng mình mà không bị tổn hại và lửa vẫn cháy.

«Lại nữa, Bồ tát này có thể lấy một cõi Phật từ phương dưới cách xa ngài Hằng hà sa số thế giới rồi ném nó lên cao ở phương trên cách xa ngài Hằng hà sa số thế giới nữa, dễ dàng như người ta dùng đầu mũi kim nâng một chiếc lá táo mà không làm cho lá táo hư hại.

«Lại nữa, Xá-lợi-phất, Bồ tát đã trụ giải thoát bất khả tư nghị có thể dùng thần lực hiện thân là Phật, Bích-chi-Phật, Thanh-văn, Đế Thích, Phạm thiên, hay Thế chủ, hoặc hiện thân Chuyển luân Thánh vương.[40] 

«Lại nữa, Ngài cũng có thể khiến mọi âm thanh trong mười phương quốc độ, âm cao, trung, thấp, đều biến thành tiếng Phật giảng pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, và đủ các pháp khác nhau được thuyết bởi chư Phật khắp mười phương; tất cả đều được nghe cùng khắp trong đó.

«Thưa ngài Xá-lợi-phất, tôi chỉ mới nói vài năng lực của giải thoát bất khả tư nghị. Nếu kể cho đủ thì trong một kiếp cũng chưa nói hết.»

Lúc bấy giờ, Đại Ca-diếp nghe pháp môn Giải thoát bất khả tư nghị này liền tán thán là chưa từng có, rồi nói với Xá-lợi-phất: 

«Giống như có người trình bày các thứ sắc tượng trước mặt người mù, nhưng người mù không thể thấy. Hết thảy Thanh-văn không thể hiểu dù được nghe pháp môn Giải thoát bất khả tư nghị này. Những người có trí nghe pháp này ai mà không phát tâm cầu giác ngộ tối thượng? Chúng ta vì sao để cho vĩnh viễn đoạn tuyệt gốc rễ mà so với pháp Đại thừa này thì như hạt giống đã mục. Hết thảy Thanh-văn khi nghe pháp môn Giải thoát bất khả tư nghị này phải khóc than, âm thanh chấn động cả ba nghìn đại thiên thế giới. Hết thảy Bồ tát thì nên hết sức hân hoan, đội lên đầu mà thọ nhận pháp này.[41] Bồ tát nào tin hiểu trì pháp môn Giải thoát bất khả tư nghị này, hết thảy bọn Ma[42] không thể làm gì được.»

Khi Đại Ca-diếp nói điều này, 32.000 chư thiên phát tâm cầu giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Bấy giờ Duy-ma-cật nói với Đại Ca-diếp

«Thưa Nhân giả, những ai hiện thânMa vương trong vô lượng a-tăng-kỳ thế giới khắp mười phương, phần lớn đều là Bồ tát đã trụ giải thoát bất khả tư nghị. Bằng phương tiện lực để nhằm hóa độ chúng sinh nên hiện thân như vậy .

«Lại nữa, Đại Ca-diếp, vô lượng Bồ tát khắp mười phương có khi có người đến xin cho tay, chân, tai, mũi, đầu, mắt, tủy, não, máu, thịt, da, xương, chòm xóm, thành ấp, nàng hầu hay vợ con, nô tỳ, voi, ngựa, xe cộ, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, hổ phách, chân châu, vỏ sò, quần áo, đồ ăn thức uống; những người đến xin như vậy phần lớn đều là Bồ tát đã trụ giải thoát bất khả tư nghị; dùng phương tiện lực để thử, khiến cho chí nguyện được kiên cố. Vì Bồ tát đã trụ giải thoát bất khả tư nghị có đại uy lực để thúc ép Bồ tát và cho chúng sinh thấy những việc khó làm như vậy.[43] Phàm căn trí thấp kém không có uy lực đó để thúc ép Bồ tát làm như vậy.[44] Cũng như[45] cái đạp[46] của voi chúa không phải là điều mà con lừa có thể kham.[47] Đó chính là cánh cửa dẫn vào phương tiện của trí tuệ của Bồ tát đã trụ giải thoát bất khả tư nghị.»[48] 

 

[1] Bản Hán, La-thập, «Bất tư nghị phẩm đệ lục 不思議品第六 .» Huyền Trang, quyển 3 «Bất tư nghị phẩm đệ lục, 不思議品第六 .» 

[2] Giới 界, chỉ 18 giới (Skt. dhātu). VCX: «không cầu giới con mắt (Skt. cakṣur-dhātu), cho đến giới ý thức (Skt. vijñāna-dhātu).»

[3] DMC: nhập 入. Đây chỉ 12 xứ 處 (Skt. āyatana) . VCX: «không cầu xứ con mắt (cakṣur-āyatana) cho đến xứ pháp (Skt. dharmāyatana).»

[4] VCX: «không cầu Dục giới (Skt. kāmāvacara), Sắc giới (Skt. rūpāvacara), Vô sắc giới (Skt. arūpāvacara).»

[5] DMC: trước phật 著佛, trước pháp 著法, trước chúng 著眾. VCX: Phật chấp , Pháp chấp , Tăng chấp 佛執及法僧執. Skt. buddha-grāha, dharma-grāha, saṅgha-grāha.

[6] DMC: kiến khổ, đoạn tập, tận chứng, tu đạo. VCX: tri khổ, đoạn tập, chứng diệt tu đạo

[7] Vô hý luận 無戲論. Skt. niṣprapañca. 

[8] VCX: «pháp được gọi là tịch tĩnh và cận tịch tĩnh. VCS: «Tịch tĩnh, chỉ chân như. Cận tịch tĩnh, chỉ các pháp vô lậu khác.» (Skt. śānta, upaśānta).

[9] VCX: «Pháp vốn không tham nhiễm, lìa tham nhiễm

[10] VCX: «Đó là đi tìm sự tham nhiễm chứ không phải đi tìm pháp.»

[11] Hành xứ 行處. VCX: «pháp không phải là cảnh giới» = cảnh giới sở hành. Skt. gocara.

[12] VCX: «Nếu tư duy trên tất cả cảnh giới sở hành, đó là cầu cảnh giới chứ không phải cầu pháp

[13] Thủ xả 取捨; VCS: «Thủ, tức nhiếp thủ 攝取. Xả, tức khí xả 棄捨.» Chấp nhận hay loại bỏ. Skt. ādāna-tyāga.

[14] DMC: pháp vô xứ sở 法無處所, pháp không có nơi chốn. VCX: pháp vô nhiếp tàng 法無攝藏, pháp khôngsự tích chứa. VCS: «Cái tích chứa (năng nhiếp tàng) là ái. Cái được tích chứa (sở nhiếp tàng) là đối tượng (sở duyên) của ái.» Có lẽ Skt. nirālaya. Cf. Nhiếp Đại thừa luận bản 1 (T31n1594_p0134a18) dẫn Tăng nhất: «Thế gian chúng sinh yêu a-lại-da (ālaya)…» Trong đó (T31n1594_p0133b18) A-lại-da được định nghĩa: «Do tích chứa các pháp…由攝藏諸法 .» Cf. Pali, Saṃyutta, S.i. 136: ālayarāmā kho panāyaṃ pajā ālayaratā ālayasamudditā, «Chúng sinh nay say đắm, thích thú, vui sướng với những gì được tích chứa.» Nghĩa cụ thể của ālaya la «cái nhà, chỗ cư ngụ;» do đó, DMC dịch là xứ sở.

[15] DMC: trước xứ 著處. VCX: lạc nhiếp tàng 樂攝藏. Skt. ālayarāma; xem cht. 14 trên.

[16] VCS: «Nếu tùy theo tướng của pháp mà nhận thức…»

[17] VCX: «Người cầu pháp thì không cùng trụ với pháp. Vì pháp vốn vô sở trụ.» VCS (T38n1782, tr.1078a6) giải thích: «Không cùng với tất cả thế tục trụ pháp.»

[18] VCX: «Nếu cùng trụ với phấp; đó là cầu trụ chứ không phải cầu pháp

[19] Kiến văn giác tri 見聞覺知. Skt. dṛṣṭa-śruta-mata-jñāta. VCS (T38n1782_p1078a09): «Đối pháp luận nói, được tiếp nhận bởi mắt là thấy (kiến, dṛṣṭa ); bởi tai là nghe (văn, śruta); bởi tri giác tự nhiên mà biết như vậy như vậy là cảm nhận (giác, mata); nhận thức nội tạinhận biết (tri, jñāta).»

[20] VCX: «Pháp được gọi là vô vi, lìa hữu vi tính.»

[21] Hán: ưng vô sở cầu 應無所求. Skt. aparyeṣitavya .

[22] VCX: «xa lìa trần cấu, được sự thanh tịnh…» CDM: «Triệu nói, được pháp nhãn tịnh của Đại thừa.» VCS: chứng quả Dự lưu. Cf. Pali, D. i. 110: āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi, «ngay trên chỗ đang ngồi, trổi dậy con mắt pháp đã dứt sạch bụi bẩn.»

[23] Tương đương 1012 a-tăng-kỳ 阿僧祇 Skt. asaṅkhyeya: vô số). VCX: vô lượng vô số trăm nghìn câu-chi (Skt. koṭi).

[24] Tu-di tướng 須彌相. VCX: Sơn tràng 山幢.

[25] Tu-di Đăng Vương 須彌燈王 (Sumerudīparājan). VCX: Sơn Đăng Vương 山燈王 (Parvata-dīparājan).

[26] Do-tuần 由旬. CDM: Triệu nói, do-tuần mức chuẩn thượng là 60 dặm; chuẩn trung, 50 dặm; chuẩn thấp nhất, 40 dặm. VCX: Phật cao 84 ức du-thiện-na 踰膳那; toà sư tử của Ngài cao 68 ức du-thiện-na. Bồ tát cao 42 du-thiện-na, với toà sư tử cao 34 du-thiện-na (Skt. yojana= 4 krośa hay khoảng 9 dặm Anh).

[27] VCX: «nhiếp niệm nhập định rồi phát khởi thần thông lực như vậy như vậy.»

[28] DMC: 3 vạn 2 nghìn. VCX: 32 ức = 3.200.000.

[29] 4 vạn 2 nghìn = 42.000. VCX: 4.200.000.

[30] Tân phát ý bồ tát 新發意菩薩. VCX: tân học bồ tát 新學菩薩. Skt. ādikarmika-bodhisattva. VCX: những vị này được Duy-ma-cật giảng pháp yếu, tức thì chứng ngũ thông và tự biến hình được để ngồi lên sư tử toà.

[31] Tức Đại thanh văn . Skt. Mahāśrāvaka.

[32] Tu-di sơn vương 須彌山王. VCX: Diệu cao sơn vương 妙高山王. Skt. Sumeru-parvata-rājan.

[33] Tứ Thiên vương 四天王 và Đao-lị chư thiên 忉利諸天, Skt. Cāturmahārājakāyika & Trayastriṃśā devāḥ. Cf. Câu-xá 11 (Đại 29 tr. 59c14): núi Tu-di phân thành bốn tầng cấp. Tầng thứ tư là chỗ của Tứ đại thiên vương cùng quyến thuộc. Trên chóp đỉnh là chỗ của thiên chúng Tam thập tam thiên. Vì vậy, nếu di chuyển Tu-di, thì các chư thiên này cũng bị di chuyển.

[34] VCX: «Chỉ những ai cần chưng kiến thần thông lực mới có thể khuất phục, những người ấy mới thấy…»

[35] VCX: «Bồ tát an trụ giải thoát bất khả tư nghị như vậy, được dẫn vào bằng năng lực trí tuệ của phương tiện thiện xảo. Cảnh giới giải thoát bất khả tư nghi này không phải là cảnh giới mà các Thanh văn và Bích-chi-phật có thể ước lượng được.» 

[36] VCX: «như bàn xoay của thợ gốm xoay rất nhanh.»

[37] VCX: thừa ý thế thông 乘意勢通, nương theo năng lực thần thông được thực hiện bằng thế lực của ý chí. VCS (T38n1782_p1080a16): «Có hai giải thích về ý thế thông. 1. Không phải du hành bằng tự thân, mà bằng thế lực của ý… 2. Sự vận dụng hoạt động của thân tùy theo thế lực của ý, cho nên cực kỳ nhanh chóng, trong một sát na mà đi khắp mười phương….»

[38] VCX: đại phong luân 大風輪.

[39] Kiếp tận 劫盡. thời kỳ thế giới hủy diệt. Skt. kalpakṣaya= saṃvarttayām, kiếp hoại, xem Câu-xá 2 (Đại 29, tr. 11c11).

[40] VCX thêm một đoạn: «hoặc biến các hữu tình hiện thành thân Phạt, thân các Bồ-tát…»

[41] VCX thêm: «Như Vương thái tử đăng quang nhận ngôi vị Quán đỉnh

[42] VCX: Ma vương và thuộc hạ của Ma vương.

[43] VCX: «Vì muốn sự lợi ích cho các hữu tình nên thị hiện những sự nghiệp lớn khó làm như vậy.»

[44] VCX: «không thể thực hiện sự ăn xin bằng cách thúc ép người cho như vậy.»

[45] Trước đó, VCX có thêm thí dụ: «Như lửa đom đóm không thể che ánh mặt trời…»

[46] Thứu đạp 蹴蹋. VCX: «như sự chiến đấu uy mãnh của voi chúa…»

[47] VCX thêm: «… chỉ có voi chúa mới có thể chiến đấu với voi chúa. Cũng vậy, phàm phuđịa vị thấp kém không đủ để bức bách Bồ tát (phải cho). Duy chỉ Bồ tát mới có khả năng bức bách Bồ tát (bố thí).»

[48] VCX thêm kết luận: «Khi pháp này được thuyết giảng, tám nghìn Bồ tát chứng nhập cảnh giới giải thoát bất tư nghị vốn chỉ có được chứng nhập bằng trí lực của phương tiện thiện xảo của Bồ tát

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19880)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29003)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20718)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19470)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30551)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36476)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33275)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35612)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21014)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21947)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25285)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25820)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31296)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18587)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25168)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23804)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28965)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20899)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31466)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25579)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29746)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22546)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25747)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23310)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25769)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23770)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40631)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23365)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22491)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22111)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23526)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23301)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24348)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41139)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19021)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20513)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27749)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38151)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34097)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36819)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24037)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29239)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60196)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27647)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68782)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24555)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24519)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22745)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26393)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26576)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20848)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20092)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27589)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46492)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53605)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23635)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21127)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25624)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29298)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant