Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 12: Thấy Phật A-Súc

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 10694)
Chương 12: Thấy Phật A-Súc

Chương 12
THẤY PHẬT A-SÚC
[1]

Bấy giờ Phật hỏi Duy-ma-cật: 

«Ông muốn thấy Như Lai; nhưng ông quán Như Lai như thế nào?»

Duy-ma-cật đáp: 
“Như tự quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy.[2] Con quán Như Lai, tiền tế không đến, hậu tế không đi, hiện tại không trụ. Không quán sắc, không quán như của sắc, không quán tính của sắc.[3] Không quán thọ, tưởng, hành, thức, không quán như của thức, không quán tính của thức. Không do tứ đại sinh khởi, đồng với hư không.[4] Sáu xứ không tích tập thành; vì đã vượt ngoài nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và tâm. Không ở trong ba cõi, vì đã lìa ba thứ cáu bẩn, thuận ba giải thoát môn, đầy đủ ba minh, cùng vô minh bình đẳng.[5] Không nhất tướng,[6] không dị tướng; không tự tướng, không tha tướng; không phải vô tướng, không phải thủ tướng; khi giáo hóa chúng sinh Ngài không ở bên này, chẳng đến bên kia cũng không ở giữa dòng.[7] Ngài quán sát lẽ tịch diệt mà không vĩnh viễn tịch diệt. Không là đây cũng không là kia;[8] không lấy đây, không lấy kia;[9] không thể lấy trí để biết; không thể lấy thức để nhận thức; không mờ, không sáng; vô danh, vô tướng; không mạnh, không yếu; không sạch, không nhơ; không ở phương nào cũng không xa lìa phương nào,[10] không phải hữu vi cũng không phải vô vi; không thể chỉ ra cũng không thể nói đến; không bố thí cũng không ích kỷ; không trì giới cũng không phá giới; không nhẫn cũng không sân; không tinh tấn cũng không giải đãi; không định, không loạn; không trí cũng không ngu; không thành thật cũng không lừa dối; không đến không đi, không vào không ra; dứt tuyệt tất cả con đường ngôn thuyết; không phải phước điền cũng không phải không là phước điền; không xứng đáng cúng dường cũng không phải không xứng đáng cúng dường; không thủ, không xả; không phải hữu tướng, không phải vô tướng, đồng với chân tế, bình đẳng với pháp tánh; không thể định danh, không thể đo lường, vì vượt ngoài định danh và định lượng; không phải lớn, không phải nhỏ; không phải cái được thấy, không phải cái được nghe, không phải cái được tri giác, không phải cái được nhận biết; lìa mọi kết buộc, đồng đẳng với trí, đồng với chúng sinh; không phân biệt với các pháp; hoàn toàn không khuyết điểm; không vẩn đục, không phiền não, không tác, không khởi, không sanh, không diệt, không sợ, không lo, không mừng, không chán; không phải đã tồn tại, không phải sẽ tồn tại, không phải đang tồn tại; không thể bằng tất cả ngôn thuyết để hiển thị hay phân biệt.

«Bạch Thế Tôn, thân Như Lai như vậy, nên quán như vậy. Quán như vậy gọi là chánh quán. Quán khác đi, gọi là tà quán

Bấy giờ, Xá-lợi-phất hỏi Duy-ma-cật:[11] 

«Ông thác ở đâu mà sanh lại chốn này?»

Duy-ma-cật hỏi lại: 

«Pháp ngài đã chứng có thác có sanh ư?»

Xá-lợi-phất đáp: 

«Không thác, không sanh.»

Duy-ma-cật hỏi: 

«Nếu các pháp không có tướng thác và sanh, sao ngài lại hỏi, ‘Ông thác ở đâu mà sanh lại chốn này?’ Như với nhà ảo thuật tạo ra các nam nữ ảo; chúng có thác có sanh không?»

Xá-lợi-phất đáp:

«Chúng chẳng thác chẳng sanh.»

«Ngài há không nghe Phật dạy, các pháp là tướng như huyễn ư?»

Đáp:

«Có nghe.»

«Nếu hết thảy đều là tướng như huyễn, sao ngài, lại hỏi, ‘Ông thác ở đâu mà sanh lại chốn này?’ Xá-lợi-phất, thác chỉ là pháp hư dối, thuộc tướng suy tànhoại diệt; sanh cũng là điều hư dối, là tướng tương tục. Bồ tát tuy thác mà không dứt gốc thiện, tuy sanh vẫn không tăng trưởng các ác.»

Bấy giờ đức Phật bảo Xá-lợi-phất: 

«Có một cõi tên Diệu hỷ[12] có Phật hiệu là A-súc.[13] Duy-ma-cật đã thác ở cõi đó để sanh lại nơi này.»

Xá-lợi-phất thưa với Phật: 

«Thật chưa từng có, bạch Thế Tôn, người này chịu rời cõi thanh tịnh để đến thế giới đầy rẫy hận thù và nguy hại này!»

Duy-ma-cật hỏi Xá-lợi-phất: 

«Xá-lợi-phất, Ngài nghĩ thế nào, ánh mặt trời khi xuất hiện có hiệp cùng với bóng tối không?»[14]

Xá-lợi-phất đáp: 

«Chỗ nào có ánh mặt trời thì không còn bóng tối.»

Duy-ma-cật hỏi: 

«Vì sao ánh mặt trời soi rọi cõi Diêm-phù-đề này?»

Xá-lợi-phất: 

«Đem ánh sáng soi rọi để xua tan bóng tối.»

Duy-ma-cật: 

«Bồ tát cũng vậy, tuy sanh nơi cõi Phật bất tịnh để giáo hóa chúng sinh, nhưng không hiệp cùng sự ngu ám, mà chỉ để diệt trừ bóng tối phiền não của chúng sinh

Lúc ấy đại chúng ngưỡng vọng muốn chiêm bái đức Vô Động Như Lai cùng các Bồ tát và chúng Thanh-văn cõi Diệu hỷ. Phật biết ý nghĩ của họ, bảo Duy-ma-cật: 

«Này thiện nam tử, hãy vì đại chúng ở đây, hiện đức Vô Động Như Lai cùng các Bồ tát, chúng Thanh-văn ở cõi Diệu hỷ cho họ được nhìn thấy.»

Duy-ma-cật tự nghĩ: «Ta hãy không rời chỗ ngồi này mà tiếp nhận cõi Diệu hỷ với dãy núi Thiết vi[15] cùng đồi núi, sông, suối, khe, mạch, biển, Tu-di và các núi, và trời, trăng, sao, các cung điện của trời, rồng, quỷ thần, Phạm thiên; cùng các Bồ tát, chúng Thanh-văn, các thành phố, làng mạc, nam nữ già trẻ, cho đến đức Vô Động Như Lai với cây bồ-đề và các tòa sen mầu nhiệm dùng để làm Phật sự trong khắp mười phương, cùng ba đường thềm báu[16] nối cõi Diêm-phù-đề với trời Đao-lợi[17] cho chư thiên xuống kính lễ đức Vô Động Như Lai và nghe kinh, và con người lên đó chiêm bái chư thiên. Đó là vô lượng công đức thành tựu của thế giới Diệu hỷ, từ trên đến A-ca-ni-tra,[18] dưới đến tận ranh giới nước.[19] Ta dùng tay phải nâng lên dễ dàng như người thợ gốm nâng cái bàn quay. Vào trong thế giới này như cầm tràng hoa mà đưa ra cho hội chúng nhìn thấy.» 

Nghĩ xong, Duy-ma-cật liền nhập định, dùng thần thông lực nắm lấy cõi Diệu hỷ bằng tay mặt đem đặt lên mặt đất này. Chư Bồ tát, Thanh-văn và thiên thần đã đắc thần thông lực ở cõi đó đều cất tiếng nói lớn: 

«Bạch Thế Tôn, ai đang mang chúng con đi? Xin Thế Tôn cứu giúp.» 

Phật Vô Động bảo: 

«Không phải Ta làm mà do Duy-ma-cật đang dùng thần thông lực làm ra.» 

Còn những người chưa được thần thông đều không biết cũng không cảm thấy mình đang chuyển dịch. Thế giới Diệu hỷ tuy được mang về mặt đất vẫn không tăng không giảm, mà mặt đất cũng không bị chèn ép hay chật chội; y nguyên như cũ.

Bấy giờ, Phật Thích-ca-mâu-ni nói với đại chúng

«Các ngươi có thấy thế giới Diệu hỷ của đức Vô Động Như Lai chăng? Cõi ấy trang nghiêm, cùng chư Bồ tát hạnh thanh tịnhđệ tử thanh bạch

Đại chúng đồng thưa:

«Vâng, chúng con đã thấy.»

Phật dạy: 

«Nếu Bồ tát muốn được quốc độ Phật thanh tịnh như vậy, nên học theo đạo mà đức Vô Động Như Lai đã hành.»

Khi thị hiện cõi Diệu hỷ này, mười bốn na-do-tha[20] người đã phát tâm cầu giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác và nguyện được tái sanhthế giới Diệu hỷ. Phật Thích-ca-mâu-ni chứng nhận họ sẽ được tái sanh nơi cõi đó.

Khi đã làm xong Phật sự vì lợi ích của chúng sinh ở nơi quốc độ này rồi, thế giới Diệu hỷ được trả về chốn cũ, đại chúng đều trông thấy. 

Bấy giờ Phật nói với Xá-lợi-phất: 

«Ngươi có nhìn thấy thế giới Diệu hỷ và đức Vô Động Như Lai chưa?»

Xá-lợi-phất đáp: 

«Vâng, con đã thấy, bạch Thế Tôn. Con ước nguyện hết thảy chúng sinh đều được quốc độ thanh tịnh như cõi Phật Vô Độngthần thông lực như của Duy-ma-cật. Bạch Thế Tôn, chúng con thật sự được nhiều lợi ích khi được thân cận, cung dưỡng, con người này. Chúng sinh nào hiện tại hay mai sau khi Thế Tôn đã diệt độ mà được nghe Kinh này, thảy đều sẽ được lợi ích lớn; và càng lớn xiết bao khi nghe rồi tin hiểu, thọ trì hay đọc tụng, thuyết giảng, theo Pháp đó mà tu hành. Ai tiếp nhận kinh này là tiếp nhận kho tàng Pháp bảo. Nếu đem ra đọc tụng, giải nghĩa và theo đó mà tu hành tất sẽ được chư Phật thường xuyên hộ niệm. Ai cung dưỡng người này là cung dưỡng chư Phật. Ai sao chép, thọ trì kinh quyển này, nên biết, nhà của người ấy có Như Lai ngự. Nếu khi nghe kinh này mà tùy hỷ, người ấy ắt sẽ đạt nhất thiết trí. Ai tin và hiểu kinh này, dù chỉ một bài kệ bốn câu trong đó, và đem giảng cho người khác nghe, nên biết, người ấy ắt sẽ được thọ ký thành A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề trong tương lai.» 

 

[1] Kiến A-súc Phật phẩm 見阿閦佛品 . VCX: Quán Như lai phẩm 觀如來品 .

[2] VCX: «Con quán Như lai, hoàn toàn không có cái gì được thấy.»

[3] VCX: «Quán Như lai, quán tính chân như của sắc (rūpatathātā), tính ấy là phi sắc

[4] La-thập (Đại 38, tr.0410b16): «Pháp thân như hư không, không do bốn đại tác thành.» VCX: «Không trụ bốn giới; đồng hư không giới

[5] VCX: «Không phải minh nhưng minh. Không phải đến nhưng đến.» VCS: Minh, chỉ ba minh: túc mạng, thiên nhãn, lậu tận.

[6] Trước đó, La-thập nhảy một đoạn; VCX: «...đạt đến hết thảy pháp mà không có chướng ngại; là thật tế (bhūtakoṭi) mà không phải tế (akoṭi); là chân như (tathābhūta) mà không phải như (atathā); nơi cảnh chân như thường không sở trụ; nơi trí chân như thường không minh ứng; cảnh và trí chân như, tính của chúng đều lìa; không sinh bởi nhân, không khởi bởi duyên.»

[7] La-thập & Khuy Cơ: bờ này chỉ sinh tử. Bờ kia chỉ Niết-bàn. Giữa dòng chỉ kết sử/ phiền não.

[8] Triệu nói (T 38, tr.0411a08), «Khi hoá độ chúng sinh, có vẻ như ở đây mà lại là ở kia. Ở đây hay ở kia, đều là dấu tích của sự ứng hoá vậy.»

[9] Bất dĩ thử, bất dĩ bỉ 不以此不以彼. Triệu (T 38, tr.0411a11) nói, «Không phải đây nhưng (hoà) đồng với đây; cho nên, là đây mà không phải là đây...» VCX: «Không phải ở tại đây, không phải ở tại kia, không phải ở trung gian

[10] Triệu (nt.) nói, «Pháp thân không hiện tại bất cứ đâu, mà không đâu là không hiện tại.» VCX: «Bất tại phương phần, bất ly phương phần 不住方分不離方分 .»

[11] VCX & Chi Khiêm: Xá-lợi-phất hỏi Phật; Phật bảo hỏi thẳng Duy-ma-cật. Sau đó Phật trực tiếp trả lời. Khuy Cơ nói, sự thiếu sót trong bản của La-thập khiến cho đoạn văn thiếu mạch lạc.

[12] Diệu hỷ 妙喜. Chi Khiêm: phiên âm A-duy-la-đề thế giới 阿維羅提世界, và dịch luôn nghĩa: Diệu lạc 妙樂. Skt. Abhirati.

[13] A-súc Phật 阿閦佛 . VCX: Vô Động 無動. Chi Khiêm: Vô Nộ 無怒. Skt. Akṣobhya.

[14] VCX: «Ánh sáng của mặt trờithích thú để chen lẫn với bóng tối của thế gian chăng?»

[15] Thiết vi sơn 鐵圍山. VCX: Luân vi sơn 輪圍山. Skt. cakravāḍa. Cf. Câu-xá 11 (T 29 tr 57b12): an lập khí thế gian. Ngoài cùng là phong luân. ...Trên kim luân có 9 ngọn núi. Giữa là Tu-di (Meru), chung quanh có 8 núi. Ngoài cùng là Thiết luân vi. Pali: Cakkavāḷa, cf. SA. 442tt.

[16] Tam đạo bảo giai 三道寶階. VCS (T38n1782_p1107b22): Thế Tôn lên trời Đao lợi. Sau ba tháng ở đó thuyết pháp, Ngài trở về Diêm-phù-đề. Thiên đế sai làm cây thang báu có ba lối đi để Phật và tùy tùng đi xuống hạ giới. Giữa bằng vàng. Trái, bằng mã não. Phải, bằng thuỷ tinh.

[17] VCS: «Từ Thiệm-bộ châu lên đến đỉnh Tô-mê-lô, trời Tam thập tam.» Cf. Câu-xá 11 (T 29 tr 59c19: «Cõi Tam thập tam thiên ở trên đỉnh Me-lô (Meru).»

[18] DMC: a-ca-ni-tra 阿迦膩吒 . VCX: sắc cứu cánh 色究竟. Skt. akaniṣṭha; tầng cao nhất của cõi trời Sắc giới, thuộc đệ tứ thiền.

[19] DMC: thủy tế 水際. VCX: thuỷ tế luân 水際輪. Câu-xá 11 (Đại 29, tr. 11a): «An lập thế giới... Tầng dưới cùng là phong luân (vāyu-maṇḍala) y trên hư không... Trên phong luânthuỷ luân (jala-maṇḍala)... Trên thuỷ luânkim luân (kāncna-maṇḍala)...»

[20] VCX: 84 na-dữu-đa 那庾多 (=na-do-tha, Skt. nayuta, 10 vạn, hay 1000 ức).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14775)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11839)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12771)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10354)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12072)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15302)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11091)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10551)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12484)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16438)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14321)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11802)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14818)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12041)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16865)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12744)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11353)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52170)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15476)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13977)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11452)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13192)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12794)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13231)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12462)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12659)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54220)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14438)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9937)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13830)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58003)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14516)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20159)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13802)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15415)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17504)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13325)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11941)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13498)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14676)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12501)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12162)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12073)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13297)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12549)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13672)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13337)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25614)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12188)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14565)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11871)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42086)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28356)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38831)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14733)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12711)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16254)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant