Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chỉ Quán Môn Luận Tụng

11 Tháng Tư 201607:50(Xem: 13984)
Chỉ Quán Môn Luận Tụng
CHỈ QUÁN MÔN LUẬN TỤNG

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Luận Tập Bộ Toàn quyển thứ 32.
Ngài Thế Thân Bồ-Tát tạo luận bằng chữ Phạn.
Ngài Tam Tạng pháp sư Nghĩa Tịnh phụng chiếu dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
Sa-môn Thích Như Điển, Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover, Đức Quốc
dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt
nhân lần nhập thất thứ tư tại Tu Viện Đa Bảo Úc Đại Lợi.

Luận nầy dịch vào ngày 28.12.2006.
Tỳ Kheo Thích Hạnh Nhẫn góp phần hiệu đính xong lần thứ nhất vào ngày 10.4.2016.

Chỉ Quán Môn Luận Tụng

Nếu thấy thân người nữ
Cùng với vẻ diễm kiều
Người ngu không biết rõ
Vọng sinh ý dâm nhiễm.
Phật nói các: Sình trướng
Tiếp xúc, trừ ý dâm,
Theo được lời Thế Tôn
Được thắng quả không sót.
Giới tịnh, có nghe, nghĩ
Sách tiến thường tu tập,
Buộc niệm quán các cảnh
Đây là nhân giải thoát.
Nếu người có nhiễm sân
hôn trầm thụy miên,
Trạo cử, ác tác. Nghi
Năm thứ ngăn tu Định.
Ít nghe, ở đông người,
Ham vui thích sự hèn,
Ái thân và thọ dụng
Cũng ngăn được tu Định.
Loạn tâm có năm duyên
Tình tán theo các cảnh
Đắm vị và trầm, cử,
Ngã mạn, nặng danh tiếng.
Bí-xu nương Thánh giáo
Có lỗi phải nói trừ,
Khéo lấy duyên trụ tâm
Đó là hành tối thắng.
Tiếp, ở nơi yên lặng
Không hề có trở ngại,
Sau đó ngưng nghĩ tà
Là nghiệp đầu Bí-xu.
Nên ở rừng thây chết,
Đắp y phục phấn tảo,
Thường cầu sự tĩnh chỉ
Đoạn trừ tâm dâm nhiễm.
Khất thực thấy người nữ
Phải quán là bất tịnh,
Thu mắt trừ ý tà,
Chính tâm nhận đồ ăn.
Lắm lời, nhiều việc tạp
Đều phải nên xa lìa,
Duyên phiền não lại bức
Lực tuệ nên tu nhẫn.

Dưới cây trong bụi cỏ
Hoặc ở trong hang động,
Khi quán nên ở đây
Yên tịnh dễ tu tâm.
Khi duyên cảnh tập định
Không quá cao quá thấp,
Không nên quá gần, xa
Khiến tương ưng với cảnh.
Khéo giữ cảnh được duyên
Khéo quán sát rành rõ,
Khi nhắm mắt trụ tâm
Cũng như mở mắt thấy.
Căn môn đều nhiếp soát,
Trụ niệm ngưng nội tâm,
Duyên cảnh quán hiện tiền
Niệm niệm khiến liên tục.
Với tướng được giữ trước
Dụng tâm quán hình mạo
Sình trướng bên nữ căn
Đáng sợ đáng khinh hiềm.
Giống như nước ao đục
Gió thổi khiến động dao,
Khi nhìn ảnh các cây
Không trụ được sáng tỏ.
Nước tâm nhơ phiền não
Bị gió tình loạn thổi,
Khi lắng tâm quán sát
Tối tăm không thể trụ.
Tâm chìm nên sách tiến
Nên quán sự thắng diệu,
Như khốn đỉa hút máu
Rưới nước khiến hồi tỉnh.
Lại phải chóng thu liễm
An tâm nơi cảnh cũ,
Khiến ý có kham năng
Khéo điều đều tùy niệm.
Nếu tâm mà trạo cử
Nên nghĩ chán sự ác
Khiến tâm trụ tịch tĩnh
Như câu móc đầu voi.
Lìa xa trầm, trạo cử
Nên bình đẳng vận tâm
Tùy tình trụ nơi xả
Khi ấy không lỗi lầm.
Từ đây dần trụ được
Giữ tướng ảnh tâm an
Sáng tỏ hành trung đạo
Cầm đèn chính niệm chiếu.
Khi ấy dùng Tầm, Tứ
Nên lần lượt quán sát
Định ảnh tức liền sinh
Rõ ràng trụ ở trước.
Tịnh sáng không dao động
Như hình Đại Trượng Phu
Ảnh này vọng quán trước
Chính là tướng sai khác.
Tướng này đã sinh rồi
Các dục ác liền trừ
Tức người buộc tâm này
Tướng phương tiện Sơ định.
Thứ biết thể của sân
Vốn do tham dục phát,
Ái dục đã trừ rồi
Lìa được khỏi sân khuể.
Tiếp dùng niệm sách tiến
Trừ bỏ tâm hôn trầm,
Đã quán tướng sai khác
Nghi tình liền ngưng dứt.
Thứ phải trừ ác tác
Khéo đi đường an ổn,
Tịch tĩnh không chướng ngại
Phòng ngừa được trạo cử.
Nên biết dùng tâm thô
Quán tướng được giữ kia,
Liền ở trong tâm ảnh
Dùng ti vi tế cầu.
Thấy tâm hỷ sai khác
Do đây được khinh an,
Thứ chứng được định lạc
Định chi thứ như vậy.
Tức là định căn bản
Khéo an nơi tâm niệm,
Giống như muốn đến thôn
Và đến ở trong thôn.
Đã được định căn bản
Lại tu thêm hành khác
Được Tha tâm, Túc trụ,
Thần thông Thiên nhãn, nhĩ.
Ở đây khi có Tư
Tâm chưa được tĩnh trụ
Giống như sông có sóng
Nên biết địa chư cao.
Đã được Sơ định rồi
Nhưng trụ nơi sở duyên,
Tiếp y Định thứ hai
Tầm, Tư đều ngưng dứt.
Tuy trụ được vị này
Còn có nước hỷ động,
Khi vào định thứ ba
Tâm liền được tĩnh trụ.
Do tâm ấy có lạc
Chưa thể khiến trụ niệm,
Đã chứng định thứ tư
Các lỗi đều dứt trừ.
Phần thối, phần thắng tiến,
Phần trụ, phần quyết trạch,

Tĩnh lự có bốn loại
Người tu định phải biết.
Nếu định thuận phiền não
Đây gọi là phần thối,
Sau thắng là phần thắng,
Trụ tụ trụ nên biết.
Do trước khéo phân biệt
Là nhân quyết trạch đạo,
Định này với được kia
Gọi là phần quyết trạch.
Nơi các tướng vô thường
Làm các hành giải Khổ...
Nếu người được định này
Là các phần đạo: Noãn...
Với các tướng xanh, trướng
Sự quán có nhiều đường,
Như Thánh giáo tu hành
Khác nhau phải nên biết.
Tử thi gió vào bụng
Nơi huyệt có mủ chảy
Cả háng cũng đều khô
Gọi đó là sưng trướng.
Không ái phần thân thô
Chỉ tham thân tế hoạt,
Với ngưới tâm nhiễm này
Khiến tu quán như vậy.
Hoặc ở nơi tử thi
Có ít mủ trắng chảy,
Thịt còn lại đều xanh
Gọi đó là bầm xanh.
Thấy sắc mà sinh ái
Đó gọi người ái sắc,
Đối trị dùng xanh bầm,
Mặt trời lúc nắng cháy.
Tử thi khắp chảy mủ
Đó là tướng mủ chảy,
Với người ái hương kia
Khiến quán ngừng tâm nhiễm.
Lưng tử thi đứt nát
Gọi là tướng đoạn hoại,
Với người ái toàn thân
Đại Tiên Tôn vì nói.
Đối trị ái da thịt
Vì nói tướng thực tàn,
Tay, chân các phần xương
Tùy chỗ đều phân tán.
Với người tham các phần
Nói tướng răng xương loạn,
Ngay nơi tướng xương loạn
Dao, gậy phá chia lìa.
Cũng vì ái toàn thân
Khiến quán tướng đả loạn
Thi hài bị dao chém
Hoặc bị gậy, tên phá.
Máu chảy khắp thân tàn
Gọi là tướng huyết đồ.
Sạch sẽ hương xoa thân
Tư trang mặc áo đẹp,
Nơi đó người khởi tham
Dùng thuốc hay phân tích.
Với cảnh chỉ mình ái
Không chấp nhận người xem,
Nhiều trùng rúc tử thi
Khiến quán trừ niệm ác.
Thịt tử thi tiêu tán
Chỉ còn lại răng, xương,
Nơi răng sinh tham trước
Khiến quán tướng răng xương.
Nếu thấy người mới chết
Thức đi còn thân tàn
Chúng sinh tham trước lạc
Khiến trừ tham kiều diễm.
Phân tiểu và dớt dãi
Tụ hợp chung thành thân,
Ba mươi hai loại vật
Da bọc gọi là người.
Lông tóc và móng, răng
Gan, ruột các tướng nhân
Trong trống ba trăm xương,
Ràng quấn chín trăm xương;
Chín lỗ chảy bất tịnh
Bẩn tưởi khó trình bày,
Quán kỹ thật đáng ghét,
Người trí chẳng nên gần.
Đã quán thân người nữ
Cũng lại xét thân mình
Nơi đó nhân tham nhiễm
Theo lý thường buộc niệm.
Không thoát ngục ba cõi
Hoặc do tâm dục nhiễm
Cho nên người trí sáng
Cực khéo nghĩ sự này.
Trải nhiều khổ địa ngục
May mắn được thân người
phóng túng cuồng tâm
Không tu hạnh thù thắng.
Tham dâm có nhiều loại
Tùy sinh ác chẳng đồng,
Một quán đều trừ được
Chính là quán xương trắng.
Chạm sắc hình kiều diễm
Áo quần sinh nhiễm trước,
Thuốc nào trừ được đây?
Không qua quán xương trắng.
Trước nơi ngón chân cái
Định tâm duyên tạo sưng
Vỡ ra đã chảy mủ
Thịt đều tùy rơi rụng.
Liền quán hình xương ngón
sắc như chi, câu trắng,
Vết sưng đã lớn dần
Da thịt đều trừ sạch.
Lần lượt quán như thế
Thịt thân đều trừ hết,
Chính niệm thắng giải thành
Chỉ quán khớp xương ấy.
Nếu còn lại ít thịt
Bèn gọi là loạn ý,
Huống lại phóng tâm khỉ
Rong ruổi cầu các cảnh.
Thời gian lâu buộc tưởng
Tự biết khéo trụ được,
Tiếp dần đến người khác
Quán chung là đốt xương.
Dần rộng đến bờ biển
Trong đó đầy xương trắng,
Định này đã thành rồi
Bỏ rộng lại khiến hẹp.
Khi lược bỏ từ ngoài
Đến chỉ xương thân mình,
Lại quán xương ngón chân
Là thứ tự tâm định.
Hoặc lại bỏ từng miếng
Cực đến nơi xương đảnh,
Nên biết tâm cuối cùng
Nhiếp giữa mi khiến trụ.
Nếu tu tập như vậy
Thường sinh thắng Phạm cung,
Chẳng đọa lạc ba đường
Được sinh trời Ngũ Tịnh.
Tâm nhân gian thiện tán
Trở lại dòng sinh tử,
Người trí tu tâm định
Như lửa cháy áo thân.
Liền bỏ được các duyên
Nên ở nơi rừng vắng,
Chớ khiến vô thường bức
Chết uổng trong tán tâm.
Dùng Bát-nhã tịnh tâm
Rốt được quả khả ái,
Nếu không mong hậu hữu
Với thắng đạo nên tu.
Cạo tóc đắp Ca-sa
Phải nên tu Thánh đạo,
Tự nói các tạp sự
Sẽ là nhân sinh tử.


CHỈ QUÁN MÔN LUẬN TỤNG

Sửa chính tả: Phật Tử Thanh Phi

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14781)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11851)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12781)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10366)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12079)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15311)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11110)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10564)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12492)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16446)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14336)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11813)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14828)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12049)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16875)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11600)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12750)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11359)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12076)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52198)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15489)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11461)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13199)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12802)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13240)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17938)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12473)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12670)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54231)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14448)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9947)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13835)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58025)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14525)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20166)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13818)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15421)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17514)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13334)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11947)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13506)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14684)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12507)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12164)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12080)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13311)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12559)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13678)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13347)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25625)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12192)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14574)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11882)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42099)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28366)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38836)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14736)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12719)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16257)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 22318)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant