Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Sa Di GiớiCác Loại Sa Di

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8575)
Chương 2: Sa Di Giới Và Các Loại Sa Di

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ năm: Sa Di Thập GiớiThức Xoa Lục Pháp
Chương 2: Sa Di GiớiCác Loại Sa Di

I. TẠI SAO GỌI LÀ SA DI, SA DI NI?

Người xuất gia trong Phật giáo gồm có 5 hạng, trong thiên này chỉ nói 3 hạng: Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma ni. Trong luật điển thông thường gọi ba hạng này là tam tiểu chúng (ba chúng nhỏ). Do vì từ trên đại thể nam nữ xuất gia 20 tuổi trở xuống không được thọ Tỳ kheo giớiTỳ kheo ni giới, tuy nhiên tuổi tác của tam tiểu chúng cũng không hạn định phải dưới 20 tuổi. Do đó, một là tuổi nhỏ, hai là đẳng cấp của giới cũng nhỏ, vì thế gọi là tiểu chúng.

Trước hết, chúng ta nói về vấn đề của Sa di. Giới của Sa diSa di ni có 10 điều giống nhau. Còn điểm khác nhau của Sa diSa di ni giớioai nghi tuỳ đại chúng học: Sa di phải học theo luật nghi Tỳ kheo, Sa di ni phải học theo luật nghi của Tỳ kheo ni. Tỳ kheoTỳ kheo ni giới có những phần bất đồng, nên luật nghi của Sa di, Sa di ni theo học vì thế cũng có sự khác nhau. Nhưng trên thập giới căn bản của Sa diSa di ni thì hoàn toàn đồng, chỉ cần hiểu rõ Sa di giới thì sẽ hiểu rõ Sa di ni giới, vì thế khi giảng thập giới, chúng tôi chỉ giảng Sa di giới.

Sa di là dịch âm chữ Phạn: Sràmanera. Chữ này ở Trung Quốc có hai cách dịch tân và cựu. Cựu dịch là “tức từ” nghĩa là dứt ác hành từ. Tân dịch là “cần sách”, nghĩa là tiếp thọ sự khuyến khích siêng gắng của đại Tỳ kheo Tăng. Trong các tác phẩm của Ngài Nghĩa Tịnh Tam Tạng dịch, thường lấy nghĩa “cầu tịch” để gọi Sa di, nghĩa là cầu lấy đạo Niết bànquả viên tịch. Viên tịchviên mãn tịch tịnh, cũng là đạo cứu cánh của Niết bàn. Xuất gia là vì tự cầu giải thoát vừa lại giúp người khác giải thoát. Sa di là cấp bậc thứ nhất của đạo xuất gia. Vì thế, một người làm Sa di được gọi là “cầu tịch” “cần sách” và “cầu tịch”, thì nghĩa “cầu tịch” thì thích đáng hơn hết. Nhưng trong Phật giáo, khi gọi hàng đệ tử xuất giatại gia của Phật, phần nhiều thường dùng âm dịch của Phạn văn làm chuẩn.

Sa di ni nghĩa là “cầu tịch nữ”. Trong sự phiên dịch của kinh Phật, phần nhiều dùng âm “ni” để đại biểu cho nữ tánh, như Thức xoa ma ni (có chỗ dịch là Thức xoa ma na), thật ra là lấy âm “ni” đại biểu cho nữ tánh. Chúng ta lại thấy trong Thiện Kiến Luật quyển hai đem Dạ xoa nữ dịch thành Dạ xoa ni, trong Kinh Tạp A Hàm quyển 4 cũng đem Bà la môn nữ gọi là Bà la môn ni, đủ thấy một âm “ni” là tiếng gọi thông thường trong sự phiên dịch kinh Phật dùng để đại biểu cho nữ tánh.

II. NỘI DUNG CỦA SA DI THẬP GIỚI

Sa di thập giới trong văn của Bát giới chúng tôi đã giới thiệu 9 điều, trong đó chỉ có một điều “giới cấm giữ vàng bạc châu báu” còn phải giới thiệu thêm. Nhưng điều văn giới tướng của thập giới ở đây vẫn cần phải liệt kê lại để hoàn thành hình thái của Sa di thập giới.

Sa di thập giới là:

1. Không sát sinh.

2. Không trộm cướp.

3. Không phi phạm hạnh (không dâm).

4. Không vọng ngữ.

5. Không uống rượu.

6. Không đeo tràng hoa thơm, không dùng dầu thơm xoa thân.

7. Không ca múa và biểu diễn các bộ môn nghệ thuật, không cố ý đến xem nghe.

8. Không ngồi nằm giường lớn cao rộng.

9. Không ăn phi thời.

10.Không cần giữ sanh tượng vàng bạc vật báu.

Ý nghĩa nội dung của 10 điều giới này đã có giảng qua trong Bát giới, ở đây không giảng lại. Chỉ có sự bất đồng giữa chín giới trước và bát giớithời gian thọ trì. Bát giới là một ngày một đêm thọ trì. Sa di giớisuốt đời thọ trì. Còn có một điểm bất đồng là hai giới là thứ 6 và thứ 7 hợp lại hay phân ra khác nhau. Bát giới đem hai điều thứ 6 và thứ 7 của Sa di giới hợp thành một điều thứ 6, Sa di giới thì đem giới thứ 6 của Bát giới phân làm hai giới thứ 6 và thứ 7.

Nay chúng ta giảng về giới thứ 10: “Không cầm giữ sanh tượng vàng bạc vật báu” của Sa di giới. Điều này thông thường là giới tiền bạc. Người xuất gia vì phá trừ tâm tham, phá trừ cái thói quen người ta nói là “có người chết vì của cải”, lại nói “có người không sống được ngàn năm, mà lo tính chuyện vạn năm”. Sự ham muốnsúc tích của cải của con người có thể nói là bẩm sinh, có một trăm mong muốn một ngàn, có một ngàn mong muốn một vạn, cho đến thành phú ông trăm vạn ngàn rồi lại mong muốn lũng đoạn kinh tế thế giới, muốn cả thế giới nầy đều thuộc sở hữu của mình. Thật ra điều này ở trong xã hội tư bản chủ nghĩa của công thương nghiệp thì được cổ vũ nhưng ở trong thế giới đại đồng của dân sinh chủ nghĩa lại không được hoan nghinh, trong Phật giáo của chúng ta lại càng không chấp nhận. Của cải có thể tạo phước cho nhân quần, là sự thật không thể phủ nhận. Nhưng, của cải có thể thành chủ nhân của người và người trở thành nô lệ cho của cải cũng là sự thật không thể phủ nhận. Của cải là vật ở ngoài thân là điều ai cũng biết, nhưng xem của cải là vật ở ngoài thân lại là điều rất khó làm. Vì thế, của cải là thứ có khả năng lớn nhất sai khiến con người, cho nên người xuất gia trong Phật giáo chủ trương không súc tích của cải, cho đến nói rằng cầm giữ của cải đều là hành vi phạm giới. Đức Thế Tôn Thích Ca thấy thấu suốt tính chất trói buộc của cải đối với con người và sự ham muốn chiếm hữu mãnh liệt của con người đối với của cải, cho nên Ngài muốn giải trừ cho đệ tử xuất gia việc cầm giữ của cải. Bằng không thì bị vấn đề của cải làm động cân não khởi tham đắm, đâu thể “thấy được suốt, buông được xuống”, đâu thể nhất tâm ý vì đạo nỗ lực!

Xem của cải như đồ vô dụng, lúc Phật giáo mới khai sáng thì có thể làm được, giữa ngày ăn một bữa sau khi đi từng nhà khất thực, ngủ một đêm dưới gốc cây là chỗ có thể an thân. Ấn Độ là miền nhiệt đới thân cây cao lớn, nhánh lá sum sê, ngủ dưới gốc cây gần như ở trong một cái lọng thiên nhiên. Khí hậu của Ấn Độ rất nóng, giả sử đêm đông lạnh nhất, Đức Phật thí nghiệm cũng chỉ cần ba y là có thể đủ ấm. Đồng thời, phong tục của Ấn Độ đương thời, người chết phần nhiều đem bỏ vào thi lâm (tương đương như nghĩa địa ngày nay) để lộ thiên cho tan rã, cho đến cứ để mặc cho chim thú ăn, quần áo của người chết, người xuất gia nhặt lấy chế thành bay để mặc. Quyến thuộc của người chết đưa người chết đến thi lâm thì thường bỏ tang phục của người chết trên mộ. Vì thế, nguyên lai “phấn tảo y” của Tỳ kheo Phật giáo cũng là lấy “y của gò mả”. Vấn đề ăn ở mặc giải quyết xong. Còn vấn đề đi lại đương thời cũng rất đơn giản, trừ khi qua sông thì cho đi thuyền, còn voi ngựa xe cộ trên đất liền phần nhiều là đồ dùng của thương gia hoặc quân đội tác chiến, người bình dân thông thường ít có cơ hội được cưỡi, lữ hành đi buôn bán ra nước ngoài dùng xe chở hàng hóa, còn người thông thường đều đi bộ. Người xuất gia lấy việc hành cước du hóa làm bổn phận, vì thế cũng không dùng đến tiền xe, tiền đò, cho đến qui định “không được không bệnh mà đi xe”. Người xuất gia sinh hoạt ở trong hoàn cảnhtình hình như thế, còn dùng của cải để làm gì? Vì thế, đặc sắc nhất của giới xuất gia là “giới tiền bạc”. Bát giới là của đệ tử tại gia thọ trì, người thế tục chẳng thể không có tiền bạc, vì thế không chế một điều này, còn người xuất gia có thể làm được. Vì thế, một khi xuất gia phải thọ trì một điều giới này.

Nhưng người xuất gia của Phật giáo mỗi ngày một đông, thể chất của người xuất gia có người cường tráng cũng có người yếu đuối, tập tánh của người xuất gia có người cam đạm bạc, cũng có người không chịu nổi phong sương mưa nắng dãi dầu, thậm chí có người mang tập khí tham của rất nặng, không súc tích của cải thì không thể hành đạo tu trì.

Do đó, Đức Phật vì nhu yếu thực tế dần dần cho phép Tăng chúng xuất gia có chùa chiền, tịnh xá, tăng phòng, có súc tích đồ cần dùng cho cuộc sống, cũng khai mở ra cho phép được tiếp nhận của cải.

Nhân vì tiền tệ là sản vật của nền văn minh nhân loại, nó có thể làm môi giới cho sự đổi chác. Thí chủ cúng dường cho người xuất gia các thứ như quần áo, thức ăn, đồ nằm, thuốc thang. Nhưng trong nhà của thí chủ không thể là tiệm buôn vải, tiệm lương thực, xưởng chế tạo đồ dùng và nhà thuốc. Giả sử có mở tiệm cũng không hoàn toàn có đủ các thứ này. Nếu như hoàn toàn có đủ đi nữa, khi đem phẩm vật cúng dường người xuất gia cũng chưa ắt là thích hợp với nhu cầu. Do đó, sự nhận lấy tiền tệ đối với người xuất gia không thể tuyệt đối cấm ngăn được.

Nhân đấy, vì lý do Tam bảo có thể tiếp thọ, vì lý do người khác có thể tiếp thọ, cho đếnlý do chính mình có thể tiếp thọ, nhưng trên nguyên tắc vẫn không cho tự thọ, tự chứa cất, cho nên Đức Phật lại vì hàng đệ tử xuất gia chế một thứ pháp thuyết tịnh.

Pháp thuyết tịnh là mời một người thế tục làm chủ tịch, hễ thâu nhận được tiền bạc bèn nói là thay người thế tục kia thâu nhận, đây là của tịnh chủ kia chứ không phải của chính tôi. Nói như thế rồi có thể thâu. Nhìn từ hình thức, pháp thuyết tịnh này giống như không cần phải có. Kỳ thật, nó có giá trị của sự tuân hành, vì người xuất gia ở trên bản chất tuyệt đối không được thọ nhận tiền bạc. Nhưng đây cũng là một phương tiện bất đắc dĩ, quyết chẳng nên nhận vì có pháp thuyết tịnh là tham lam không biết chán. Pháp thuyết tịnh có thể cảnh sách người xuất gia chẳng nên tiếp thọ tiền bạc quá nhiều. Nếu như cho rằng có pháp thuyết tịnh rồi tham cầu càng nhiều càng tốt không thôi, ấy là đánh mất ý nghĩa của pháp thuyết tịnh. Vì thế, người xuất gia tốt nhất là không nên thọ nhận tiền bạc. Nhưng, nếu có nhu yếu như giữ tiền chi phí thuốc men lúc bệnh và chi phí sinh hoạt hằng ngày, thì tự nhiên không ngại gì dùng pháp thuyết tịnh để tiếp thọ tiền bạc.

Căn cứ sự quy định trong luật, người xuất gia là nương tựa chúng và sinh hoạt ở trong tăng đoàn, nhu yếu phẩm trong sinh hoạt của người xuất gia đều phải do Tăng đoàn sở tại (thường trụ) cung cấp. Vì thế, thường trụ tự viện có thể tiếp thọ tiền bạc, nhưng cũng bị hạn chế rất nghiêm khắc: Tỳ kheo không được chính tay mình cầm nắm, Sa di thì có thể cầm nắm, nhưng với người có tịnh nhân ngũ giới thì phải do tịnh nhân ngũ giới phụ trách tiếp thọ và bảo quản, cho đến bịt mắt người thế tục rồi dắt người ấy đến một chỗ chỉ định để tiền bạc vào đó. Điều này ngày nay không còn cách nào làm được. Như có thể giữ cho không tham cũng đã là khó rồi, chứ tuyệt đối không giữ tiền bạc gần như là việc ít thấy.

Bây giờ, giải thích bốn chữ “sanh tượng vàng bạc”. Trong bốn chữ này, chủ yếu là hai chữ “sanh tượng” cần phải giải thích. Có hai lối giải thích:

1. “Sanh sắc là vàng, tợ sắc là bạc”: Vàng ròng nguyên chất gọi là “sanh sắc”, lấy bạc mà nhuộm thành màu vàng gọi là “tợ sắc”, tợ cũng có nghĩa là tượng.

2. Sanh, là chính ngay các vật báu như vàng bạc châu ngọc. Tượng, là dùng vàng bạc vật báu chế làm ra các món đồ vàng, đồ bạc, cho đến các món đồ quý do châu ngọc, san hô, mã não, thủy tinh, xa cừ, lưu ly, hổ phách, đồi mồi, đá hoa, ngà voi chế tạo thành.

Người xuất gia chẳng những không được cầm giữ vàng bạc tiền tệ, mà tất cả vật báu, đồ quý đều chẳng được cầm giữ, đương nhiên cũng không cho cất giấu và súc tích. Nhân vì đồ quý làm cho tâm tham đắm, một khi đối với vật bên ngoài sinh khởi tâm tham đắm, đó là tâm bị vật chuyển, chứ chẳng còn tự tại giải thoát được. Ở đây có một chuyện tích như sau: Thuở xưa, có một người xuất gia, vị ấy đã thấy suốt thế sự danh lợi, ở ẩn một mình nơi chỗ yên tịnh tu tập, đã chẳng viếng thăm ai và cũng không tiếp khách đến thăm. Nhưng vị ấy yêu thích và quý tiếc một chiếc bát đựng thức ăn. Có vị đạo nhân biết vị ấy còn một khuyết điểm này, bèn đến gõ vào chiếc bát của vị ấy. Khi nghe có người gõ cái bát của mình, vì sợ cái bát của mình bị người gõ bể, vị ấy liền vội vàng từ chỗ yên tịnh chạy ra, người khách gõ bát bèn giáo huấn vị ấy: “Tôi biết ông tất cả đều buông bỏ hết, chỉ có cái bát này là chưa buông xuống được”.

III. ĐẲNG VỊCÁC LOẠI SA DI

Thời kỳ đầu tiên lúc Phật còn tại thế, trong Tăng đoàn không có Sa di. Sự xuất hiện của Sa di trong Phật giáo so với sự xuất hiện của Tỳ kheo ni sớm hơn một chút. Đại khái là lúc La Hầu La là con của Đức Phật theo Phật xuất gia mới bắt đầu có Sa di.

Tăng đoàn của người xuất gia Phật giáo cũng tương tợ như tình hình của đại gia đình. Người xuất gia ra khỏi “nhà hữu vi” của thế tục, vào “nhà vô vi” của xuất thế. Trong cái gia đình vô vi không tạo nghiệp sinh tử này có nam, có nữ, có già, có trẻ, có lớn, có nhỏ dung hợp đối xử với nhau hòa thuận vui vẻ. Sự tiếp nhận Tăng đoàn của Sa dinhân tài của Phật giáo, tăng thêm sự nối tiếp lực lượng mới sinh. Vì thế, phần tử Sa di lấy nhi đồng làm chủ yếu.

Nhưng có người tuổi đã 20 mới nhập Tăng đoàn, hoặc vì thầy trò chẳng đủ, hoặc vì y bát chưa đủ, hoặc nhân vì vật khác mà chưa có thể thọ trì Tỳ kheo giới, vẫn bị liệt vào số chúng Sa di. Còn có các cụ già từ 60 tuổi đến 70 tuổi, đến Tăng đoàn cầu xin xuất gia, Đức Phật cũng cho các cụ ấy cạo tóc nhưng không cho các cụ ấy thọ Tỳ kheo giới, vì thế các cụ ấy cũng bị liệt vào số chúng Sa di.

Chúng ta đã nói qua phần tử chủ yếu của Sa dinhi đồng, nhưng cũng có hạn định là nhi đồng phải từ 7 tuổi trở lên và phải có năng lực làm công tác đuổi chim đuổi quạ trên sân phơi lúa mới được độ làm Sa di. Vì thế, trong luật quy định 7 tuổi trở xuống dù có năng lực đuổi quạ cũng không nên độ, 7 tuổi trở lên không có năng lực đuổi quạ cũng không nên độ. Trong luật cũng quy định người già tuổi dưới 70 có thể tự lo cho cuộc sống của mình, mới có thể xuất gia làm Sa di, 71 tuổi trở lên dù lo được hay không đều không được độ.

Nguyên nhân chủ yếu là các Tỳ kheo không có thời giờtinh lực nhiều để lo cho đệ tử quá già hoặc quá trẻ. Người quá già hoặc quá bé không làm sao chịu đựng nổi cuộc sống xuất gia, cũng không làm sao tự lo cho mình được, vì thế không cho họ xuất gia đủ thấy Tăng đoàn của Phật giáo lấy thanh niên làm chủ.

Do đó, thành phần của Sa di phân ra làm hai loại của ba đẳng vị. Ba đẳng vị là: 7 tuổi trở lên, 13 tuổi trở xuống gọi là Khu ô Sa di; 14 tuổi trở lên 19 tuổi trở xuống gọi là Ứng pháp Sa di. (Đây là hợp với tuổi Sa di yêu cầu vì họ có thể thuận với pháp hạnh Sa di mà làm, vì thế gọi là Ứng pháp Sa di); 20 tuổi trở lên, 70 tuổi trở xuống gọi là Danh tự Sa di. (Người 20 trở lên 60 tuổi trở xuống vốn có thể thành Tỳ kheo, chỉ vì nhân duyên chẳng đủ phải ở địa vị Sa di cho nên gọi là Danh tự Sa di). Còn hai chủng loại là cạo tóc nhuộm áo (cải trang) nhưng chưa thọ Sa di thập giới, gọi là Hình đồng Sa di (Hình thái tuy đồng Sa di nhưng vẫn chưa đủ tư cách của Sa di, vẫn còn bản chất của người tục, vì thế gọi là Hình đồng Sa di). Đã thọ Sa di thập giới gọi là Pháp đồng Sa di (Đây là chân thật Sa di, do thọ trì giới pháp Sa di mà thành Sa di, vì thế gọi là Pháp đồng Sa di). Nay đem ba vị và hai loại làm thành biểu đồ như sau:

blank

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22313)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16031)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15043)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18974)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14457)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18642)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14439)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13601)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13563)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11830)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13278)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13678)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13949)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13261)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15037)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16170)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11093)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16468)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11930)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17611)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12886)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13727)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14865)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16403)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13142)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12108)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12783)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12930)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14187)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14141)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16496)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12391)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14402)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11336)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11045)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13204)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13900)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13174)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13014)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13517)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12746)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10241)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13980)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10245)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13715)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16277)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11984)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12990)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11665)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12692)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10811)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11016)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10957)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11908)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12781)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11078)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12634)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11343)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant