Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Nguyên Do Và Chủng Loại Của Giới Luật Tăng Ni

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8232)
Chương 2: Nguyên Do Và Chủng Loại Của Giới Luật Tăng Ni

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ sáu: Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni Giới Cương Yếu
Chương 2: Nguyên Do Và Chủng Loại Của Giới Luật Tăng Ni

I.  NGUYÊN DO CỦA GIỚI LUẬT

Chúng ta đã nói giới luật của Phật giáo được chế định là do sự cần thiết thật sự. Việc hoàn thành của giới Tỳ kheoTỳ kheo ni cũng không phải là việc của một ngày. Trong Tăng đoàn Phật giáo buổi ban đầu vốn không có điều văn giới luật ghi thành văn, đệ tử xuất gia thời ấy đều có căn khí rất sâu, rất dày, thường thường đều ở ngay nơi hai ba lời khai thị của Đức Phật liền ngộ chứng được Thánh vị, thấp thì được pháp Nhãn tịnh, kiến đạo chứng Sơ quả, cao thì chứng thẳng Tứ quả A la hán. Như nói: “Sơ quả cày đất côn trùng lìa lưỡi cày 4 tấc”, đây là đạo cộng giới do đạo lực của Thánh vị mà ra. Trong Tăng đoàn phần nhiều là đệ tử chứng Thánh quả, vì thế dưới đạo lực của Đạo cộng giới tự nhiên hợp với yêu cầu của giới nên không phạm tội. Đã không phạm tội nên không cần phải chế giới.

Căn cứ trong luật ghi chép, Ngài Xá Lợi Phất trước tiên thỉnh Phật chế giới, Đức Phật nói không phạm không chế. Trong Ngũ Phần Luật quyển 1 Phật nói: “Này Xá Lợi Phất! Trong chúng của ta chưa từng có pháp hữu lậu. Trong chúng này của ta người nhỏ nhất đắc Tu đà hoàn. Các Đức Phật Như Lai không vì chưa có pháp hữu lậukết giới cho các đệ tử”. Đây cùng với Bồ tát giới bất đồng. Bồ tát giới là “Chư Phật pháp nhĩ”. Ba đời chư Phật đều do Bồ tát giớithành Phật. Bồ tát giới không do một vị Phật nào chế ra mà là chư Phật đồng chế, bản lai như vậy. Tỳ kheo giớicăn cứ vào sự cần thiết của sự thật để chế định, Đức Phật tuy biết cần phải chế những giới nào nhưng Ngài quyết chẳng chế định trước. Điều này có lý do: Một là biểu thị dân chủ, hai là tôn trọng nhân cách của các đệ tử. Nếu như không phạm mà chế, các đệ tử đương nhiên phải tiếp thọ, nhưng đó không phải xuất phát từ ý tứ của các đệ tử mà lại xuất phát từ sự cưỡng chế của Đức Phật. Phạm tội mới chế giới, đây là xuất phát từ sự nhất trí của đại chúng trong Tăng đoàn. Từ trong luật chúng ta thấy Đức Phật chưa từng chủ động chế qua một điều giới, chẳng qua là vì do nơi người phạm lỗi lầm bị sự chê trách của người ngoài, rồi do các đệ tử thiểu dục, tri túc, thích hạnh đầu đà, biết hổ thẹn, trình bạch với Đức Phật. Đức Phật chế giới. Vì thuận theo yêu cầu của đại chúng, Đức Phật lại còn đem những điều giới Ngài đã chế ra tu chính hai ba phen, đây là biểu hiện tinh thần dân chủ một cách đầy đủ. Đức Phật tuyệt nhiên không muốn các đệ tửlỗi lầm, các đệ tử hảo tâm xuất gia tự họ cũng không muốn trong Tăng đoàn có người phạm lỗi; đây là một thứ yêu cầu của tâm tự trọng. Nếu Đức Phật dự bị chế giới trước thì biểu thị sự khinh thường các đệ tử của Ngài và thấy chắc các đệ tử sẽ có lỗi lầm xuất hiện; đây là đối với Tăng đòan dường như có nhiều lo lắng, thậm chí làm cho người chưa phạm tội cảm thấy như bị chồng thêm một lớp xiềng xích, và như thế là coi rẻ nhân cách của các đệ tử. Phạm lỗi lầm rồi mới chế giới, đó là nguyên nhân từ nơi phạm giới mới chế giới, chứ không phải Đức Phật cưỡng chế.

Tinh thần của Đức Phật chế giới nhìn trên bề mặt là ý của Đức Phật, nhìn từ thực tế là ý của đại chúng trong Tăng đoàn. Đức Phật chỉ là người chủ trì hoặc là người chứng minh trong quá trình chế giới. Giới là phương thuốc phòng ngừa sự hư đốn của đại chúng. Người ra toa hoặc hốt thuốc phòng ngừa sự hư đốn này là Đức Phật, người yêu cầu ra toa và xin hốt thuốc chính là đại chúng trong Tăng đoàn. Đức Phật là vị thầy thuốc khám bệnh cho chúng Tăng trong Tăng đoàn, đại chúng trong Tăng đoàn là người bệnh hoạn nhờ Phật chữa bệnh. Do đó, nếu người không bệnh mà ra toa hốt thuốc cho họ, họ sẽ nhất định mắng anh là xúc phạm đến họ. Người mắc bệnh nếu được trị liệu, người ấy sẽ cảm kích muôn phần, đây là tâm lý thông thường của chúng sinh.

Nhân đây chúng ta hiểu một cách sâu sắc rằng Đức Phật là một vị Đại Đạo Sư rất vĩ đại và từ bi. Phật cứu hộ tất cả chúng sinh, dụng tâm không có chỗ vi tế nào không đến; đã tôn trọng ý tứ đại chúng, lại luôn luôn hộ niệm đến khuyết điểm của chúng sinh. Nghĩ đến điều này khiến chúng ta cảm đông rơi nước mắt.

Trừ Đại thừa Bồ tát giới là chư Phật đồng chế; giới Tỳ kheo Tỳ kheo ni của chư Phật chế không đồng nhau hết, chỉ có bốn điều đại giới căn bản: Hành dâm, trộm cướp, giết người, đại vọng ngữ là chư Phật chế đồng nhau. Như trong Thiện Kiến Luật Tỳ Bà sa quyển 8 nói: “Tất cả chư Phật đối với tội Ba la di không kết khác nhau. Bốn Ba la di không thêm, không bớt”. Trừ bốn điều này ra, chẳng những chư Phật chế bất đồng, mà chúng ta cũng thấy trong các bộ Quảng Luật thu tập các điều giới khác cũng đều riêng có nhiều ít, thêm bớt.

Căn cứ vào sự ghi chép của Tăng Kỳ Luật, Đức Phật vì các Tỳ kheo chế một điều giới thứ nhất là giới dâm, đó là: “Đức Thế Tôn ở thành Tỳ Xá Ly, thành Phật 5 năm, nửa tháng thứ 5 của mùa Đông ngày 12 sau khi dùng bữa ăn giữa trưa, bóng mặt trời ngã về hướng Đông một người rưỡi, Phật chế giới cho con trai của Trưởng giả Da Xá Ca Lan Đà.

Điều giới thứ hai là giới trộm cướp: Thế Tôn ở thành Vương Xá, thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ 2 của mùa Đông ngày mùng 10 sau bữa ăn trưa, bóng mặt trời ngã về hướng Đông hai người rưỡi, Phật chế giới cho con người thợ gốm tên Đạt Ni Ca, Bình Sa VươngTỳ kheo Phấn tảo y.

Điều giới thứ ba là giới sát sinh: Thế Tôn ở thành Tỳ Xá Ly, thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ 3 của mùa Đông, ngày mùng 9 trước bữa ăn trưa, bóng mặt trời ngã về hướng Bắc, nhân Tỳ kheo tu tập bất tịnh quán đâm ra chán ghét sắc thân, nhờ ngoại đạo Lộc Trượng giết, mà chế giới.

Điều giới thứ tư là đại vọng ngữ: Thế Tôn ở thành Xá Vệ thành Phật 6 năm, nửa tháng thứ 4 của mùa Đông, ngày 13 sau bữa ăn trưa, bóng ngã về hướng Đông ba người rưỡi, vì nhiều Tỳ kheo đi vào xóm làng cùng nhau gọi là A la hán (để được tín thí cúng dường nhiều) và vì Tỳ kheo tăng thượng mạn mà chế giới”.

Trong các bộ Luật, chỉ có Tăng Kỳ Luật ghi rõ ràng ngày giờ tháng năm chế giới, mà cũng chỉ ghi được ngày giờ tháng năm chế giới của bốn điều giới Ba la di. Nhưng căn cứ vào Luật nói 12 năm đầu, chỉ có người phạm một giới chế một giới, chứ không có người tái phạm.

Như thế, chúng ta đã biết rõ Đức PhậtTỳ kheo chế giới là từ cuối mùa Đông của năm thứ 5 sau khi thành Phật. Điều này cũng nói lên cho chúng ta biết trong Tăng đoàn của Phật giáo đến năm thứ 5 trở về sau, phần tử dần dần phức tạp, có những người căn cơ hơi cạn tiến nhập vào Tăng đoàn Tỳ kheo phát sinh ra vấn đề, vì thế cần phải chế giới đề phòng sự hủ bại. Từ năm thứ 6 trở về sau, vấn đề càng nhiều, vì thế trong một thời gian ngắn không đầy 50 ngày trong cuối mùa Đông lại liên tiếp chế ra ba điều giới trọng. Do đó, sự chế ra Tỳ kheo giới có thể đứt đứt nối nối một mạch đến trước lúc Đức Phật nhập diệt mới đình chỉ. Dường như giới luật này hoàn toàn căn cứ vào nhu cầu của tình huống thực tế đương thời đương xứ mà chế thành, nhưng không cùng với giới luật của chư Phật chế hoàn toàn giống nhau, cho nên cũng không thể đem toàn bộ điều văn của giới luật này hoàn toàn thích ứng với sinh họat Tỳ kheo trong thời đại và địa phương bất đồng. Vì thế, Đức Phật trong Ngũ Phần Luật quyển 22 đã nói: “Tuy là giới của ta chế, nhưng ở phương khác không cho là thanh tịnh thì đều không được dùng. Tuy chẳng phải giới của ta chế, nhưng ở phương khác phải nên làm thì không được chẳng làm”. Đây là Thánh giáo sáng suốt biết bao!

Đến như Tỳ kheo ni giới, trừ bộ phận đặc biệt Phật chế riêng cho phái nữ ra, đa số giới tướng đồng và giới tướng Tỳ kheo. Sự xuất hiện của Tỳ kheo ni giới đương nhiên sau Tỳ kheo giới rất xa.

II. LÀM THẾ NÀO HOÀN THÀNH THÂN PHẬN TỲ KHEOTỲ KHEO NI?

Tỳ kheoTỳ kheo ni cố nhiên phải giữ gìn Tỳ kheoTỳ kheo ni giới. Nhưng thân phậntư cách của Tỳ kheoTỳ kheo ni không phải do sự thủ trì Tỳ kheoTỳ kheo ni giới mà ra. Đức Phật thứ nhất, thứ hai, thứ ba (Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Diệp La) trong 7 Đức Phật quá khứ không có kiết giới cũng không thuyết giới. Các Ngài cũng có 7 chúng đệ tử (nhưng sau khi Phật diệt độ, Phật pháp cũng tiêu mất). Năm năm đầu tiên sau khi Thích Ca Thế Tôn thành Phật chưa có chế giới, nhưng đã có rất nhiều đệ tử Tỳ kheo, đủ biết Tỳ kheoTỳ kheo ni không phải có ra là do nơi giới luật; trái lại, sự có mặt của Tỳ kheoTỳ kheo ni giới là do nhu yếu của Tỳ kheoTỳ kheo ni. Như vậy, thân phận hoặc tư cách của Tỳ kheoTỳ kheo ni làm sao hoàn thành ? Ở đây cần phải nói đến chủng loại của Tỳ kheoTỳ kheo ni. Trước hết là nói về chủng loại của Tỳ kheo. Điều này trong các bộ luật cũng có ít nhiều bất đồng.

A. Tứ Phần Luật có 11 thứ Tỳ kheo

1. Tỳ kheo xin ăn.

2. Tỳ kheo trì y hoại sắc có cắt rọc.

3. Tỳ kheo phá ác.

4. Tỳ kheo thật.

5. Tỳ kheo kiên cố.

6. Tỳ kheo thấy lỗi.

7. Tỳ kheo do một lời thọ giới.

8. Tỳ kheo do hai lời thọ giới.

9. Tỳ kheo do ba lời thọ giới.

10. Tỳ kheo thiện lai.

11. Tỳ kheo đúng như pháp bạch tứ yết ma thọ giới.

B. Căn Bản Tát Bà Đa Bộ Luật Nhiếp có 10 thứ Cận viên:

1. Không có thầy, như Phật Thế Tôn.

2. Chứng trí, như trường hợp 5 vị Bí sô.

3. Vấn tấn, như trường hợp ông Ô Đà Bi.

4. Quy y như trường hợp Đại Ca Diếp.

5. Năm người, là trường hợp ở vùng biên địa, 5 vị Luật sư có thể truyền thọ giới cho người.

6. Mười người, là trường hợp tại nơi Phật pháp thịnh hành (trung phương) phải đủ 10 vị luật sư truyền giới cho người.

7. Thọ kinh pháp, như trường hợp Đại Thế Chủ.

8. Khiến sứ, như trường hợpĐạt Ma Trần Na.

9. Hai chúng, nghĩa là hai bộ tập hợp.

10. Thiện lai nghĩa là chính Đại sư (Phật) đích thân nói.

Trên đây, ba pháp: 7, 8, 9 là pháp thọ giới của Tỳ kheo ni, 7 pháp kia đều là pháp thọ giới của Tỳ kheo.

C. Thập Tụng Luật có 10 thứ pháp thọ Cụ túc giới:

1. Phật Thế Tôn tự nhiên không có thầy đắc Cụ túc giới.

2. Năm Tỳ kheo đắc đạo tức đắc Cụ túc giới.

3. Trưởng lão Ma Ha Ca Diếp tự thệ liền đắc Cụ túc giới.

4. Ông Tô Đàtùy thuận đáp Phật luận nên đắc Cụ túc giới.

5. Biên địa do 5 vị tăng trì luật truyền được thọ Cụ túc giới.

6. Tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề thọ Bát kỉnh pháp liền đắc Cụ túc giới.

7. Bán Ca Thi Na sai sứ được thọ Cụ túc giới.

8. Phật nói thiện lai Tỳ kheo đắc Cụ túc giới.

9. Quy mạng Tam bảo rồi, ba lần xướng tôi theo Phật xuất gia tức đắc Cụ túc giới.

10. Bạch tứ yết ma đắc Cụ túc giới.

Trên đây, hai pháp 6 và 7 là pháp thọ giới của Tỳ kheo ni, 8 pháp kia là pháp thọ giới của Tỳ kheo.

D. Kinh Tỳ Ni Mẫu có 5 thứ pháp thọ Cụ túc giới

1. Thiện lai Tỳ kheo liền được thọ Cụ túc giới.

2. Ba lời (tức tam quy ) liền được thọ Cụ túc giới.

3. Bạch tứ yết ma tức đắc Cụ túc giới.

4. Phật chấp nhận cho thọ Cụ túc giới (Bát kỉnh pháp) liền được thọ Cụ túc giới.

5. Thọ Cụ túc giới bậc thượng, lúc Phật tại thế không có người truyền giới mà chỉ trực tiếp ở bên Phật nghe pháp đắc quả A la hán.

E. Tứ Phần Luật có 8 thứ Tỳ kheo:

1. Danh tự Tỳ kheo.

2. Tương tự Tỳ kheo.

3. Tự xưng Tỳ kheo.

4. Thiện lai Tỳ kheo.

5. Khất cầu Tỳ kheo.

6. Tỳ kheo mặc y cắt rọc.

7. Tỳ kheo phá kiết sử (dứt bặt phiền não chứng A la hán).

8. Thọ đại giới bạch tứ yết ma, như pháp thành tựu được xứ sở Tỳ kheo.

Trên đây chỉ có ba thứ Tỳ kheo số 4, 7, 8 là thật Tỳ kheo đúng như pháp, năm thứ kia là giả chứ không phải là Tỳ kheo đúng như pháp. Tuy chủng loại Tỳ kheo trong năm bộ luật nêu trên đều có chút ít bất đồng, nhưng có thể quy nạp làm 10 lọai:

1. Không có thầy.

2. Một lời.

3. Hai lời.

4. Ba lời.

5. Phá kiết sử.

6. Tự thệ.

7. Thiện lai.

8. Vấn tấn.

9. Luận đáp.

10. Baïch tứ yết ma ( bao hàm cả biên địa 5 vị Tăng truyền giới và trung phương 10 vị Tăng truyền giới).

Tỳ kheo đắc Cụ túc giới đại khái chẳng ra ngoài mười phương pháp này. Nhưng lúc Phật còn tại thế, thông thường sử dụng chỉ có Thiện lai Tỳ kheoBạch tứ yết ma Tỳ kheo. Tám loại kia là hạn cuộc vào căn tánh đặc thù của nhân vật, so ra Tỳ kheo phá kiết sử có nhiều hơn 7 loại Tỳ kheo kia. Ngoài ra, như trường hợp không có thầy thọ giới, chỉ có một mình Đức Phật; tự thệ thọ giới, chỉ có một mình Ngài Đại Ca Diếp; vấn tấn thọ giới, chỉ có một mình Ngài Ô Đà Di (tức là Ca Lưu Đà Di); tùy thuận đáp Phật luận thọ giới, chỉ có một mình ông Tô Đà. Đến như Thiện lai Tỳ kheo chỉ dùng một mạch đến khi Đức Phật nhập diệt là dứt. Sau khi Phật diệt độ, chỉ có một phương pháp thọ giới của Bạch tứ yết ma thọ Tỳ kheo giới. Trong thời đại Đức Phật, Thiện laiBạch tứ yết ma đều dùng, đều làm, nhưng có một sự phân biệt: Đức Phật đích thân độ người xuất gia, Đức Phật chỉ nói một tiếng “Thiện lai Tỳ kheo”, người được độ nhờ túc căn của mình nương vào oai thân của Phật lập tức râu tóc tự rụng, ca sa hiện trên thân, bình bát nơi tay, nghiễm nhiên giống oai nghi Tỳ kheo của Thượng tọa lão tham. Nhưng đây cần phải là người túc căn sâu dày có thể lập tức chứng quả mới làm. Ý nghĩa của Thiện lai Tỳ kheo, căn cứ vàosuy diễn phải có ba tầng:

1. Ông muốn xuất ly sinh tử, đến đây thật đúng thời cơ.

2. Ông đến làm Tỳ kheo thật là một việc rất tốt.

3. Ông đến xuất gia làm Tỳ kheo, Phật giáo vô cùng hoan nghinh ông.

Trong suốt cuộc đời Đức Phật, Ngài độ được bao nhiêu “Thiện lai Tỳ kheo”? Các vị đại đệ tử được Đức Phật độ ở thời kì đầu tiên gần như đều là Thiện lai Tỳ kheo, tỷ như năm người trong nhóm ông Kiều Trần Như, 30 người trong nhóm ông Mẫn Từ Tử, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp và 500 đệ tử. Dà Da Ca Diếp và 200 đệ tử, Ưu Ba Tư Na và 250 đệ tử, Đại Mục Kiền Liên và 250 đệ tử, con cháu dòng Vương thất Thích Ca 500 người, nhóm ông Bạt Độ Đế 500 người, nhóm quần tặc 500 người ( tư liệu này thấy trong Ma ha Tăng Kỳ Luật). Do đây đủ thấy Thiện lai Tỳ kheo ở trong Tăng đoàn đương thời là giai tầng lãnh đạo, cũng là thành phần chủ yếu.

Tỳ kheo của bạch tứ yết ma thọ Cụ túc giới, đó là các vị đệ tử Tỳ kheo của Đức Thích Ca độ cho các vị Tỳ kheo xuất gia đời thứ ba mới có. Nhân vì khu vực đất đai của Ấn Độ rất rộng, các đại đệ tử của Phật mỗi người giáo hóa một phương, mỗi phương đều có người cầu xin xuất gia, nếu phải lặn lội từ xa đến xin Phật độ thì quá phiền phức, thậm chí ở dọc đường phát sinh tai biến. Vì thế, Phật quy định các đệ tử Tỳ kheo cũng được độ người xuất gia thọ Cụ túc giới. Người thọ Cụ túc giới cần phải ở trong Tăng đoàn có 10 vị Tỳ kheo trở lên cầu được sự thông qua và thừa nhận nhất trí, mới được kể là Tỳ kheo hợp pháp. Bạch tứ yết ma nghĩa là một phen báo cáo, ba phen trưng cầu sự im lặng chấp thuận. Trong 10 người chỉ cần có một người phản đối là Tăng không hòa hợp bèn không thành yết ma thọ giới và người thọ giới không đắc Cụ túc giới. Đây là một nghi thức giản đơn mà thiêng liêng , mục đích là có được sự chấp thuận của Tăng chúng, chứ chẳng phải truyền thọ riêng tư. Tuy nhiên, trong Tăng đoàn lúc Phật còn tại thế, thọ Cụ túc giới cũng là Phật sự bình thường, thông thường đều lấy cơ hội thuyết giới mỗi nửa tháng để cử hành, vì đây là ngày quy định chư Tăng tập họp. Ngoài ra, các ngày an cưtự tứ cũng đều là cơ hội tốt để truyền thọ Cụ túc giới.

Như trong Ngũ Phần Luật quyển 16 nói, Phật nói “Cho phép nhân ngày Bố tát tự tứ, lúc Tăng tự tập họp, truyền thọ Cụ túc giới”. Hoàn toàn không giống như Phật giáo Trung Quốc phân thành Thiền tự, Giảng tự và Luật tự ; chỉ có Luật tự học luật, trì luậttruyền giới ; còn Thiền tự và Giảng tự không học, không trì, cũng không truyền giới. Điều này hình thành đương nhiên là do nhân tố của bối cảnh xã hội, chúng ta chẳng nên phiền trách, cho đến sự truyền giới của ngày nay lại cũng có chút lạm.

Chủng lọai thọ giới của Tỳ kheo ni:

A. Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bí Sô Tỳ Naïi Da có 5 thứ Bí Sô Ni:

1. Danh tự Bí sô ni.

2. Tự nói Bí sô ni.

3. Khất cầu Bí sô ni (người nữ thế tục vì mưu cầu sinh sống).

4. Phá phiền não Bí sô ni.

5. Bạch tứ yết ma Bí sô ni.

(Hai loại thứ 4, 5 hợp pháp, ba lọai kia đều phi pháp)

B. Kinh Tỳ Ni Mẫu quyển 1, Tỳ kheo ni có 5 cách thọ Cụ túc giới:

1. Theo lời thầy dạy thực hành (Bát kỉnh pháp) gọi là thọ Cụ túc giới.

2. Bạch tứ yết ma mà được thọ Cụ túc giới.

3. Sai sứ đại diện mà được thọ Cụ túc giới.

4. Thiện lai mà được thọ Cụ túc giới.

5. Thượng thọ Cụ túc giới (phá kiết sử).

Thật ra trong hai bản luật liệt kê Tỳ kheo ni hợp pháp chỉ có bốn loại: Phá kiết sử, Bát kỉnh pháp, Sai sứ, Bạch tứ yết ma. Thiện lai Tỳ kheo ni, nếu chiếu theo lệ Đức Phật không đích thân tự độ ni (Luận Tát Bà Đa quyển 2); đây không phải Đức Phật đích thân độ mà là do đại đệ tử Tỳ kheo ni độ. Nhưng theo sự xuất hiện của Tỳ kheo ni sau Tỳ kheo 14 năm hoặc hơn 20 năm, Tăng đoàn Tỳ kheo lúc ấy đã có nghi thức bạch tứ yết ma độ người xuất gia, Tỳ kheo ni sao không làm theo? Không lẽ còn học theo phương pháp Phật độ Tỳ kheo mà dùng thiện lai độ Tỳ kheo ni? Vì thế, đây là một vấn đề còn đợi khảo chứng.

Ai là Tỳ kheo ni phá kiết sử? Chưa thấy văn tự ghi chép. Tỳ kheo ni dùng Bát kỉnh pháp thọ Cụ túc giới chỉ có bà Đại Ái Đạo cùng 500 người nữ dòng học Thích. Sai sứ thọ, trên Phật giáo sử chỉ có một người là Đạt Ma Trần Na (Tạp Sự quyển 32 dịch là Pháp Dự), hoặc Bán Ca Thi Ni, vì cô rất đẹp nhiều người nam nghe nói cô xuất gia muốn chặn đường phá cô, nếu cô từ chùa Ni đích thân đi đến chùa Tăng thọ giới thì không thể xuất gia được. Vì thế, Đức Phật đặc biệt cho người nữ đẹp tuyệt trần khi xuất gia nếu ngại dọc dường bị phá, có thể phái đại biểu đi qua chùa Tăng cầu được yết ma cũng đắc giới. Ngoài ra, các Tỳ kheo khác thọ Cụ túc giới đều ở trong hai bộ Tăng bạch tứ yết ma thọ. Trong hai bộ Tăng thọ là trước ở trong Tăng 10 Tỳ kheo ni bạch tứ yết mathọ giới. Đắc giới là tại trong Tỳ kheo Tăng đắc. Nếu không tác bổn pháp mà trực tiếp qua Tỳ kheo Tăng thọ Cụ túc giới, có thể đắc giới nhưng Giới sư đắc tội. Tỳ kheo ni giới Trung Quốc có từng kiến lập qua chế độ ở trong hai bộ Tăng thọ hay không, đến nay không làm sao tra cứu. Có sử để kê cứu đều là trực tiếp ở trong Tỳ kheo Tăng thọ. Giới sư Trung Quốc tuy trải qua nhiều đời do vì truyền Tỳ kheo ni giớiđắc tội, nhưng cũng cam chịu, vì chưa có thể làm đúng pháp như luật.

Thọ Cụ túc giới là nói tiếp thọ toàn bộ Tỳ kheo giới hoặc Tỳ kheo ni giới. Sau khi thọ trì toàn bộ có thể bước lên Thánh vị thẳng đến quả A la hán và liễu thoát sinh tử. Không giống như thọ ngũ giới, bát giới, thập giới, chỉ là một bộ phận của giới chứ chưa đầy đủ toàn bộ giới như trong luật điển của Tân dịch không gọi là Cụ Túc giới mà gọi là Cận viên. Viên là viên mãn tịch diệt, cũng là viên tịch, cũng là Niết bàn, cũng là liễu sinh thoát tử, cũng là bất sinh bất tử, cũng là chỉ cho cảnh giới của quả A la hán. Chữ “Cận” có thể giải theo hình dung từ, nghĩa là ranh giới của viên tịch, cũng có thể giải theo động từ, nghĩa là đi đến gần cảnh giới viên tịch. Nếu nói về công năng của Tỳ kheo ni giới, thì chữ cận của cận viên, dùng động từ giải thích lại đúng hơn.

Chúng ta có thể nhờ sự thọ trìkiên trì Tỳ kheo giới hoặc Tỳ kheo ni giới để dần dần tiếp cận với viên tịch, và cũng từ tiếp cận với viên tịch sau cùng tiếp nhập vào viên tịch. Do đây, Tỳ kheo giới là cây cầu đưa chúng ta đến cảnh Niết Bàn. Viên tịch vốn là nghĩa của Niết bàn, nhưng mà sau này Tăng tử vong đều gọi là viên tịch, nếu nói theo luật thì đó là thay thế người chết vọng ngữ!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27174)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20048)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21946)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24743)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30971)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27762)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26508)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21306)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23219)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38125)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18435)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19953)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19041)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22789)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29566)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15846)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18851)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19655)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20149)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18116)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22927)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34165)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16417)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26062)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24055)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29120)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30949)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26261)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23320)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24669)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30031)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20219)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20401)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15144)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23877)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant