Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Phần 46 - 50

18 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8527)
3. Phần 46 - 50

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT

Hòa thượng Thích Thiện Siêu

46. Sáu trường hợp tâm niệm sám diệt tội Tăng tàn.
47. Sám hối tội Ba-la-di và Tăng tàn.
48. Sám hối tội Thâu-lan-giá.
49. Sám hối tội Ba-dật-đề, Đề-xá-Ni, Đột-kiết-la.
50. Mười tám việc đưa đến phá hòa hợp Tăng: phá kiết-ma Tăng, phá Pháp
luân Tăng

46. Sáu trường hợp sám diệt tội Tăng tàn.
 

Lại có một bổn khác trong Hành Sự Sao quyển hạ, nói ý hơi khác một chút. Cũng nói có 6 hạng người phạm Tăng tàn có thể tâm niệm sám (bên Căn Bổn Tát-bà-đa bộ thì đối thủ sám) của Đạo Tuyên luật sư, Tổ sáng lập Luật tông viết.

 

1. Hạng Thượng tọa phạm Tăng tàn. Khi thấy như thế các người khác sinh tâm kiêu mạn, tức họ cũng có lỗi, cũng mất nhờ, cho nên đức Phật nói: nếu Thượng tọa đó nhất tâm sinh niệm sám hối thì được thanh tịnh

 

2. Hạng Thượng Tọa mà cả Tăng, tục thiện hữu đa số điều biết tiếng tăm. Đối với hạng này nếu có phạm Tăng tàn cũng không xử như người khác, đem ra giữa chúng Tăng đủ hai mươi Tăng xuất tội, mà họ có thể tâm niệm sám thì được thanh tịnh.

 

3. Hạng đa tàm quý. Là hạng người mà động tịnh gì là biết tàm quý, nếu đem ra giữa chúng Tăng đông đủ hai mươi Tăng xuất tội họ mắc cỡ có thể xả giới bỏ tu, hay có thể xấu hỗ chết đi thôi vì họ nhạy cảm. Nếu họ tâm niệm sám thì được thanh tịnh.

 

4. Là hạng người bịnh quá nặng, giữ không được, không đủ sứcsám hối...

 

5. Là hạng người ở trú xứ một mìnhphạm Tăng tàn, không đủ 20 vị Tỳ-kheo thanh tịnh để cầu sám hối, mà đi qua xứ khác thì gặp giặc, bị giặc hại mà chết, tự nhiên mọi sự đều hết, nên họ có thể tâm niệm sám.

 

6. Là ở trong chúng Tăng của mình đang ở, không có ai thanh tịnh hết. Vị này biết lỗi, đi qua xứ khác tìm các vị Tăng thanh tịnh để xin sám hối, nhưng lo đi giữa đường bị giặc giết chết, sự việc cũng hết.

Sáu hạng này, đức Phật nói nhất tâm sinh niệm như pháp sám hối thì người đó được thanh tịnh, khi chết được sinh Thiên thượng. 

47. Sám hối tội Ba-la-di và Tăng tàn.
 

Chúng của Phật có chúng 20 người, có chúng 10 người, có chúng 4 người, có chúng 3 người, có chúng 1 người và tự tâm sám. Chúng 10 là chúng khi thọ Đại giới. Trong giới của Phật chế, thì tội Ba-la-di là tội nặng nhất. Muốn sám hối thì phải sám với 20 người. Nhưng nói tội Ba-la-di mà sám hối với chúng 20 người được sao? Vì Ba-la-di là tội bất khả sám. Nhưng khi nói sám với 20 người là trường hợp người phạm biết ăn năn hối hận, nếu bắt tội không cho sám thì họ có thể buồn nản và tự tử. Họ thương chiếc áo Ca-sa, ưa đời sống tu sĩ quá, vì vậy khi phạm họ cũng rất ăn năn hối hận. Trường hợp này luật cũng cho phép họ học pháp Ba-la-di. Người muốn học pháp Ba-la-di cũng đối trước chúng Tăng 20 người để xin phép và chúng Tăng 20 người kiết-ma cho phép học pháp Ba-la-di. Khi được phép rồi vẫn không được tham dự Tăng sự, chỉ được giữ hình thức tu sĩ ở trong chùa. Trường hợp sám với 20 người là trường hợp này, nên chỉ dành cho Tăng chứ Ni không có chuyện sám này.

 

Muốn sám hối lội Tăng tàn thì sám hối với ai? Tăng phạm tội Tăng tàn, nếu không che dấu thì trong sáu đêm hành Ma-na-đỏa, phải sám hối trước Tăng 4 vị trở lên. Còn Ni thì trong 15 hôm hành Ma-na-đỏa, phải sám hối trước hai bộ Tăng, mỗi bộ 4 vị trở lên. Khi tác pháp xuất tội, thì phải đủ 20 vị Tăng xuất tội cho Tăng, và 20 Tăng, và 20 Ni xuất tội cho Ni. Nếu thiếu thì tội Tăng tàn không hết. 

48. Sám hối tội Thâu-lan-giá.
 

Muốn sám hối tội Thâu-lan-giá thì sám với ai? Tùy theo thượng phẩm, trung phẩm, hạ phẩm Thâu-lan-giá mà sám. Thượng phẩm sám với 20 người, trung phẩm sám với 4 người, hạ phẩm sám với 3 người. Tội này thì sám hối được.

49. Sám hối tội Ba-dật-đề – Đề-xá-Ni – Đột-kiết-la.
 

Sám hối tội Ba-dật-đề thì trước một người, Đề-xá-ni cũng vậy. Còn tội Đột kiết la sám hối với ai? Không sám hối với ai hết, mà khi xảy ra, mình tự trách lấy lòng mình thôi. Thí dụ, khi mình làm điều gì đó biết là sai, nghĩ rằng: Tôi ăn năn quá, bậy quá, mình làm điều đó sai quá, sau này không nên làm nữa. Thế là hết tội.

 

Muốn sám hối thì phải tìm vị Tỳ-kheo nào không có tội mà sám, còn tìm những vị có tội mà sám thì cá mè một lứa, coi như huề, không sám chi hết.

 

Tăng, Ni là chúng xuất gia, Ni có nhiều giới hơn. Cho nên có những giới Ni, Tăng đồng nhau, nhưng cũng có những giới Ni, Tăng khác nhau. Phạm cũng như thế. Trong giới sát, đạo, dâm, vọng, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phạm thì ghép vào tội Ba-la-di, còn Sa-di, Sa-di-ni phạm thì tội Đột kiết la, đuổi ra khỏi chùa mà thôi. Vì Sa-di, Sa-di-ni không cùng cọng trú kiết giới, cho nên có phạm cũng không gọi là phạm tội bất cọng trú, chỉ không cho thọ giới tiếp mà thôi.

50. Mười tám việc đưa đến phá hòa hợp Tăng.
 

Trong Học pháp có một giới cần phải nhận định rõ, là giới phá hòa hợp Tăng. Tăng từ 4 vị trở lên, không biệt chúng mà đồng một kiết-ma, đồng thuyết một giới, gọi là Tăng hòa hợp. Có 18 việc dẫn đến sự phá Tăng hòa hợp

 

1. Pháp nói là phi pháp (như Tám thánh đạocon đường duy nhất đưa đến Niết-bàn, lại cho không phải hoặc không duy nhất).

 

2. Phi pháp nói là pháp (trái với trên).

 

3. Luật nói là phi Luật (Tám thánh đạo là nền tảng của Luật, lại nói là không phải. Hoặc bốn Thánh chủng là Luật, lại cho là không phải Luật).

 

4. Phi Luật nói là Luật (trái với trên).

 

5. Phạm nói là không phạm.

 

6. Không phạm nói là phạm.

 

7. Phạm khinh nói là phạm trọng.

 

8. Phạm trọng nói là phạm khinh.

 

9. Phạm hữu tàn nói là vô tàn (tàn là dư tàn; phạm những tội có thể sám hối là hữu tàn, còn tội Ba-la-di không thể sám hối gọi là vô tàn).

 

10. Phạm vô tàn nói là tàn (trái với trên).

 

11. Tội thô ác nói là phi thô ác.

 

12. Tội phi thô ác nói là thô ác.

 

13. Thường sở hành nói là phi thường sở hành (pháp thường sở hành chỉ cho tám Thánh đạo, pháp phi thường sở hành chỉ cho 5 điều của Đề-bà-đạt-đa).

 

14. Phi thường sở hành nói là thường sở hành.

 

15. Chế nói là phi chế (Điều luật Phật cấm chế nói là không phải cấm chế).

 

16. Phi chế nói chế (trái với trên).

 

17. Thuyết nói là phi thuyết (những điều do chính Phật dạy nói là không phải).

 

18. Phi thuyết nói là thuyết.

 
Duyên khởi từ Đề-bà-đạt-đa.

 

Trong Luật nói phá Tăng có hai thứ: Phá kiết-ma Tăng và phá pháp luân Tăng.

 

– Phá kiết-ma Tăng: Là ở cùng trong một giới, tách ra để Bố-tát riêng, hoặc phá không để cho Tăng kiết-ma.

 

Phá pháp luân Tăng: Pháp luân gọi là Bát chánh đạo... Phật chuyển Pháp luân, chuyển Tứ đế, Bát chánh đạo pháp luân. Bây giờ khiến Tăng bỏ Bát chánh đạo của Phật để nhập vào tà đạo gọi là phá pháp luân Tăng. Trường hợp phá pháp luân Tăng phạm tội ngũ nghịch, nhưng nó là tội khả hối, chứ không phải là tội Ba-la-di, mà là tội Tăng tàn. Còn phá kiết-ma Tăng không phải tội ngũ nghịch mà là tội khả sám thuộc Thâu-lan-giá. Phá pháp luân Tăng ít nhất là phải có chín người. Trong chúng 9 người đó tách ra 5 người, một người xưng là Phật và đưa ra một giáo thuyết khác với Phật, bốn người kia phụ họa theo giáo thuyết tự xưng là Phật đó. Như vậy là họ phá chúng Tăng đang nghe theo pháp luân của Phật nên gọi là phá pháp luân Tăng. Phá pháp luân Tăng chỉ xảy ra khi Phật còn tại thế. Còn sau khi Phật nhập diệt không còn nạn phá phá pháp luân Tăng nữa. Dầu các Tổ bên Trung Hoa có lập ra tông này phái nọ, không phải là phá pháp luân Tăng, bởi vì các Tổ đều tôn Phật làm giáo chủ. Thứ đến, như hiện nay bà Thanh Hải tự xưng là Vô thượng sư hay ở nước ta có người tự xưng là U minh giáo chủ, hay là gì gì đi nữa cũng không thành vấn đề, vì họ không phải là Tỳ-kheo, nên cũng không phải là phá pháp luân Tăng, vì họ có thành Tăng đâu mà gọi là phá Tăng. Phá pháp luân Tăng là Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa đi tranh với Phật, rủ thêm bốn người là Tỳ-kheo Tăng-bạt, Kiển-trà-bạt-đà, Câu-bà-li, Ca-lưu-đề-xá với thầy (tức Đề-bà-đạt-đa) là năm, kết bạn với nhau, khất thực từ nhà nọ đến nhà kia. Phật nói các thầy không được biệt chúng khất thực như vậy, Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa tức giận mà nói: “Như lai Sa môn đã chặn đứng miếng ăn của người khác cho nên thầy rắp tâm phản, tách riêng thành chúng và xướng lên 5 pháp khác với Phật, cho hơn Phật”.

 

– Thứ nhất: Phật chế: Thường hành khất thực, thứ đệ khất thực, nếu có ai mời ăn thì chấp nhận, nếu có ai hỷ cúng cũng chấp nhận. Bây giờ Đề-bà-đạt-đa làm trái lại lời Phật. Thầy chủ trương ai cúng cũng không ăn, ai mời thọ thực cũng không nhận, ai cho thầy cũng không lấy, chỉ có đi khất thực mà ăn thôi.

 

– Thứ hai: Phật chế: Phấn tảo y, tức y lượm vải vứt bỏ ở bãi tha ma, đem về tẩy rửa cho sạch mà may y. Tuy nhiên, nếu có ai cúng y cũng nhận lãnh. Bây giờ thầy chủ trương: phấn tảo yy chính, còn ai cúng y mới thầy cũng không nhận.

 

– Thứ ba: Phậl chế: Lộ địa tọa hay thọ hạ tọa, nhưng nếu có ai cúng tinh xá, cúng chùa thì cũng ở. Thầy nói không được, thầy chỉ ngồi đất trống hay dưới gốc cây mà thôi. Còn nếu ai cúng chùa, tinh xá, giảng đường thầy cũng không nhận.

 

– Thứ tư: Phật chế: Không được ăn bơ, dầu để cách đêm. Thầy nói không cách đêm cũng không được ăn.

 

– Thứ năm: Phật chế: Tùy thí đắc thực, được phép thọ tam tịnh nhục là bất kiến, bất văn, bất nghi (tức không thấy người ta giết, không nghe tiếng kêu của vật bị giết và không nghi người ta giết để cúng cho mình). Thầy chủ

trương, dầu có cúng cũng không ăn.

 

Năm pháp đó ngược lại bổn ý của Phật. Thầy chế ra giới của thầy không dính gì với Bát chánh đạo. Bát chánh đạo là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệmChánh định. Phật cho tu như vậy mới đắc đạo, nhưng thầy nói tu như thầy mới đắc đạo, bằng cách chế năm đỉều như trên, không cần Bát chánh đạo. Thầy chế ra một giáo thuyết và thầy tự xưng Phật, nên thầy bị ghép vào tội phá pháp luân Tăng. Nhưng tội đó theo Luật là tội Tăng tàn. Nếu phá như vậy mà không ai can ngăn cả, cũng không phải là tội Tăng tàn. Tội Tăng tàn như trong Luật nói là nếu có bạch tứ kiết-ma can gián xong, mà thầy không bỏ mới mắc tội, nhưng mới bạch nhị kiết-ma mà thầy bỏ thì chỉ phạm Thâu-lan-giá. Có những trường hợp làm nhưng không phạm là trường hợp mới ngăn đã bỏ. Thứ hai là khi Phật chưa chế giới đó. Thứ ba, nếu chúng Tăng muốn kiết-ma một tội nào mà phi pháp biệt chúng kiết-ma, phi pháp hòa hiệp chúng kiết-ma, như pháp biệt chúng kiết-ma, như pháp tương tợ biệt chúng kiết-ma, như pháp tương tợ hòa hợp chúng kiết-ma, thì đều vấp phải kiết-ma phi tướng, dầu có 3 lần khuyên, mà vì kiết-ma không đúng đó, kết tội cũng không thành.

 

Cho nên bên xử tội phải đúng tư cách một ông Luật sư làm đủ thủ tục mới kết tội được, trái lại, không phải là Luật sư, làm không đúng thủ tục thì lại càng không kết tội người ta được, mặc dầu người đó có tội. Ví dụ, nếu thầy là ông Tăng, thầy đang sửa soạn phá hòa hợp Tăng, nhưng tôi chặn hành động phi pháp ấy lại dầu tình giữa thầy và tôi có sức mẻ, cũng không gọi là phá Tăng. Hoặc kết tập một, hai, ba người làm kiết-ma để phá Tăng, cũng không gọi là phá Tăng, vì không đủ 5 người. Hoặc phá những kẻ ác tri thức, những người muốn làm tổn hại hay sắp sửa làm tổn hại cho Tăng, cho pháp, cho Hòa thượng, cho A-xà-lê, làm cho mất chỗ ở, cũng không gọi là phá Tăng.

 

Phá pháp luân Tăng này, bất kỳ Tăng cùng ở nội giới, ngoại giới đều phá được hết. Còn phá kiết-ma Tăng là cùng ở trong một giới mới phá kiết-ma Tăng được. Phá pháp luân Tăng chỉ có Tỳ-kheo, còn Ni không phá được, vì Ni không làm Phật được, nên không phá được. Phá kiết-ma Tăng là phải ngồi chung lại kiết-ma, bỏ thăm, tách ra mới phá, chứ không phải tới ngày Bố-tát bỏ đi chơi gọi là phá Tăng. Thí dụ hôm nay có 20 người, mới vô giới trường 12 người, còn 8 người bỏ đi chơi. Tám người không vô đó gọi là phá được không? Không được. Khi nào ngồi lại bỏ thăm, có người xúi sử không chịu ngồi chung với nhau nữa, tách ra Bố-tát riêng biệt giới mới gọi là phá kiết-ma Tăng. Nếu có ai vô trong giờ Bố-tát mà la lối ồn ào cũng không phải là phá kiết-ma Tăng. mà chỉ phạm tội ô cấu Tăng, phá pháp lục hòa, phạm pháp nhưng không phạm giới. Nếu biết một số người muốn phá Tăng, thì các vị Tỳ-kheo nên can họ đừng phá, vì phá Tăng mang tội nặng lắm, bị đọa địa ngục, khổ sở vô cùng. Và dụ dỗ họ: Nếu thầy cần y tôi cúng y, cần áo tôi cúng áo, cần tứ sự cúng dường tôi xin cúng hết. Nếu thầy đó không chịu thì nên đến vị ưu-bà-tắc thân cận thầy đó, nhờ khuyên họ đừng phá Tăng mà mang tội, thôi đừng nên phá Tăng, nếu cần gì tôi xin cúng dường hết. Thậm chí, nếu thầy tu không được, thì tôi sẽ cưới vợ cho, nhưng thầy đừng phá Tăng. Thế cho hay, trong Luật nói, khi một người làm ông Tăng, Phật thấy quý lắm, vì thấy quý cho nên thầy lỡ có phạm giới thì cũng tìm đủ mọi cách để giải sự phạm giới của thầy, chứ không trị liền. Phải ba lần can gián đã, trước khi can gián thì phải nhờ ông này bà kia có thân có thế đến can đến khuyên, dụ dỗ vật chất khuyên đừng phá Tăng. Nếu tu không được thì tôi cưới vợ giúp đỡ, chứ đừng phá Tăng. Nếu cố tình không chấm dứt, thì bắt thăm, khu xuất ông đi ra khỏi chỗ ấy mà thôi. Khi đã đuổi ra khỏi địa phương ấy rồi thì phải xướng lên rằng: “Các Đại đức, ông phá Tăng đi đến chỗ đó nên thận trọng, chớ để cho người khác họ lầm, đi theo”. Cho nên, khi đã kiết-ma trục xuất thì ông đi đến đâu phải thông báo cho họ biết, để cảnh báo họ kẻo họ không biết chúng Tăng đuổi ông đó.

 

Nói tóm, có 2 cách phá hòa hợp Tăng:

 

1. Phá pháp luân Tăng: Trường hợp Đề-bà-đạt-đa phá pháp luân Tăng khi Phật tại thế. Sau khi Phật nhập diệt không có phá pháp luân Tăng. Cách thức phá là: tự xưng Phật riêng, có pháp riêng, không nghe theo pháp luân của Phật.

 

2. Phá kiết-ma Tăng: Trường hợp trong cùng một kiết giới, cùng một thuyết giới, cùng một kiết-ma, đồng giới. Tất cả mọi việc gì cũng cùng một kiết-ma hết. Nhưng bây giờ có người sinh sự, lập ra một nhóm tạo ra sự bất hòa, rồi đưa đến kiết-ma, tập hợp lấy biểu quyết kiết-ma tách ra làm hai nhóm, gọi là phá kiết-ma Tăng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19863)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28978)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20694)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19452)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30511)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36435)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33243)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35580)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20996)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21927)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25266)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25801)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31271)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18567)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25149)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23777)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28949)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20874)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31456)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25553)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29726)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22530)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25727)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23294)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25756)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23731)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40618)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23357)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22459)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22104)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23517)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16972)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23290)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24319)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41114)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19005)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20502)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27732)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38133)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34084)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36797)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24009)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29204)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60168)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27629)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68754)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24543)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24507)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22721)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26379)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26554)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20828)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20073)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27561)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46456)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53592)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23618)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21100)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25597)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29277)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant