Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

VI. Tóm kết: Có tâm là có thiền

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13299)
VI. Tóm kết: Có tâm là có thiền

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

TÂM YẾU NHÀ THIỀN

VI. TÓM KẾT: CÓ TÂM LÀ CÓ THIỀN

Như vậy xét cho tột cùng, tâm yếu thiền ở đâu? Chỉ là ở ngay tự tâm người thôi. Có tâm tức có thiền, khỏi nói ở đâu. Vừa thấy có chỗ là hết tâm yếu.

Trong Huyết Mạch Luận, Tổ sư đã chỉ rõ: “Ca Diếp chỉ là ngộ được bản tánh. Bản tánh tức là tâm, tâm tức là tánh. Tánh tức là tâm đồng với chư Phật này, Phật trước Phật sau chỉ truyền tâm này hẳn không Phật có thể được.”

Đây Tổ sư xác quyết rõ ràng. Tổ Ca Diếp ngộ chỉ là ngộ bản tánh thôi. Bản tánh đó tức là tâm, cái tâm tức tánh này, chính là tâm đồng với chư Phật, là chỗ truyền của Phật Phật, không thể có gì khác nữa.

Song phải rõ tâm tức tánh này là tâm gì? Tức là tâm bặt đối đãi. Nhận được tâm này là yếu chỉ vào đạo, rời ngoài tâm này chắc chắn sẽ đi vào đường tà. Tuy nhiên chớ lầm với cái tâm có đủ thứ mà cho là tâm đồng với chư Phật, rồi bám vào đó mà sống bừa bãi không pháp tắc, là đi vào địa ngục nguy hiểm! Phải là tâm thể sờ sờ sáng ngời chưa từng mê, đó mới thực là tâm yếu thiền.

Đã rõ thiền là ở tâm, cuối cùng tự tin là chính yếu, thiếu tự tin là chưa hiểu thiền.

Động Sơn hỏi Hòa thượng Hưng Bình:
- Thế nào là tâm Phật?
Hưng Bình đáp:
- Chính là tâm ông.
Động Sơn thưa:
- Tuy nhiên như thế chính là chỗ con nghi.
Hưng Bình bảo:
- Nếu thế ấy, hãy hỏi lấy người gỗ đi!

Hỏi tâm Phật, đáp chính là tâm ông, nếu ông còn nghi thì hãy đến người gỗ mà hỏi. Người gỗ sẽ trả lời thế nào? Sẽ được câu đáp gì? Ngầm ý bảo phải tự xoay lại chính mình thôi. Còn muốn hướng ra ngoài tìm chỗ để hiểu là tự cách xa.

Lâm Tế dạy: “Người học đạo cốt phải tự tin, chớ tìm kiếm bên ngoài, thảy là lên trên cảnh trần rỗng của người khác, đều chẳng nhận rõ tà chánh. Chẳng hạn có Phật, có Tổ đều là việc trong kinh giáo để lại.”

Rõ thật, Tổ Lâm Tế cũng bảo tự tin trở lại chính mình thôi. Ngoài đây mà tìm Phật Tổ bên ngoài, cũng là Phật Tổ trong kinh giáo, sách vở để lại, không phải Phật Tổ thật. Bởi ngoài tâm thì lấy gì giác? Lấy gì ngộ?
Linh Huấn hỏi ngài Quy Tông:
- Thế nào là Phật?
Quy Tông bảo:
- Ta nói cho ông nhưng ông có tin chăng?
Linh Huấn thưa:
- Lời chân thật của Hòa thượng con đâu dám chẳng tin.
Quy Tông bảo:
- Chính là ông đó.

Xét cho tột thì bao nhiêu phươgn tiện của Phật, Tổ lập bày ra, không ngoài một việc, giúp cho người tự tin trở lại chính mình là gốc. Chính bản thân đức Thế Tôn sau bao năm tầm thầy học đạo, công phu đạt đến những tầng thiền cao nhất ở thế gian, nhưng Ngài vẫn thấy chưa an, cuối cùng Thế Tôn quyết buông tất cả, đến ngồi dưới cột tất bát la thiền định xoay lại chính mình mà thấu tột cội nguồn sanh tử, dứt sạch vô minh, phá tung lưới sanh tử luân hồi, tụ thành đạo Vô thượng Chánh giác. Cho nên lời Phật thốt lên: “Lạ thay! Lạ thay! Tại sao chúng sanh ở trong thân có đầy đủ trí tuệ Như Lai mà không tự thấy biết? Ta phải dạy cho các chúng sanh ấy giác ngộ Thánh đạo, để chúng lìa hẳn sự trói buộc của vọng tưởng điên đảo, thấy đầy đủ được trí tuệ Như Lai ở trong thân họ cùng với Phật không khác.” (Phẩm Thánh Khởi, kinh Hoa Nghiêm). Đây là tiếng chuôgn cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta đấy! Ai ai cũng đều có đủ phần thành Phật đó, nhưng vì bỏ quên không nhận, lại nhận những thứ vọng tưởng điên đảo, đành chịu luân hồi kiếp kiếp. Giờ đây chỉ cần nhớ lại thì tự đầy đủ cùng Phật không khác! Bỏ chỗ này mà chạy tìm đạo giác ngộ ở đâu khác là không bao giờ có!

Bài kệ truyền pháp của Phật:

  Pháp bổn pháp vô pháp
Vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp ?
Dịch:

 Pháp gốc pháp không pháp
Pháp không pháo cũng pháp
Nay đây trao không pháp
Pháp pháp đâu từng pháp ?

Cái “pháp gốc” chính là pháp “không pháp”. Nghĩa là, tuy tạm n1oi là pháp nhưgn thực sự nó không là một pah1p gì, không thuộc cái bị biết, không chỗ cho người bám hiểu. Song, chính cái cái không là pháp gì hết đó ới là thật pháp, chứ không phải hoàn toàn không ngơ, chẳng có gì. Cốt là người phải vượt lên có và không. Vậy pháp gốc đó là gì? Không thể chỉ là gì, mà chính là tâm thôi! Vì vậy, nay trao là trao cái tâm pháp này chứ không gì khác. Người nhận được tâm pháp này liền sáng tỏ mọi pháp đều không thật, không riêng có một cái thứ hai nữa! Rốt lại, chỉ là tâm tâm truyền nhau, nếu còn thấy có một pháp thật ngoài tâm để được, để truyền, tức lọt ngoài cửa Tổ.

Bởi thế, Thiền sư Hồng Tiến ở viện Địa Tạng vừa thượng đường, có hai vị tăng ra lễ bái, Sư liền bảo:

- Cả hai đều lầm!
Tại sao hai vị tăng mới ra lễ bái chưa thưa hỏi điều gì mà Sư bảo là lầm? Vậy lầm ở chỗ nào? Vì ra lễ bái là muốn thưa hỏi cái gì đó, tức đã quên mình rồi! Lầm ngay chỗ đó! Đây là Sư muốn đánh thức hai người tự nhớ lại là xong. Yếu chỉ thiền nằm ngay đó!

Song, nói tự tin, nhưgn tự tin cái gì? Tức tự tin tâm thể sờ sờ sẵn có đây thôi. Tâm thể này vốn vượt ngoài mọi tướng đối đãi so sánh. Trong Tín Tâm Minh, Tam Tổ Tăng Xán gọi là:

 Tín tâm bất nhị
Bất nhị tín tâm
Ngôn ngữ đạo đoạn
Phi khứ lai kim.

 Nghĩa:
Tín tâm chẳng hai
Chẳng hai tin tâm
Dứt đường nói năng
Chẳng phải xưa nay.

Nghĩa là, tin tâm vốn bặt niệm đối đãi, luôn luôn hiện tiền vượt ngoài thời gian, không gian, không thể nói năng suy nghĩ luận bàn. Tin được như thế thì hết còn bị ngoại vật chuyển, tự có chỗ sống vững vàng muôn thuở.

Tuy vậy, phải chú ý! Tin tâm, nhưng phải là tâm chẳng hai, tức tâm bặt đường nói năng suy nghĩ, vượt ngoài thời gian, không gian, không chỗ để hý luận; quyết không thể nhận bừa cái tâm suy nghĩ lăng xăng là nguy!

Điều này Tổ sư đã nói rõ trong Huyết mạch Luận: “Tâm lượng rộng lớn, ứng dụng không cùng, ứng mắt thấy sắc, ứng tai nghe tiếng, ứng mũi ngửi mùi, ứng lưỡi nếm vị, cho đến mọi cử chỉ hành động đều là tự tâm, ở trong tất cả thời chỉ dứt đường ngôn ngữ, chính là tự tâm.”

Quả là chỗ thấy của bậc đạt đạo vốn không hai. Ngay trong chỗ thấy nghe hằng ngày này, ngay trong mọi hành động đó, đều không ra ngoài tự tâm. Nhưng phải là “ở torng tất cả thời chỉ dứt đường ngôn ngữ, chính là tự tâm.” Tức phải vượt qua chỗ nói năng suy nghĩ mới đúng! Đến đây, Tổ sư đã chỉ hết tình, không giấu diếm chút gì, phần còn lại là người có đủ tự tin hay chưa vậy thôi.

Tóm lại, thiền là của chung tất cả, không phải của riêng ai. Ai có tâm đều có thiền, đây là chân lý muôn thuở! Bởi vậy tâm yếu thiền luôn hiện khắp trong mọi động dụng của chúng ta đang sống, rất bình thường giản dị, sát với chúng ta đến nỗi bất ngờ! Chỉ có điều, người muốn sáng tỏ được tâm yếu này thì phải quên niệm đối đãi phân biệt, bặt đường nói năng, hiểu biết. Vì nó không phải là cái bị biết, bị hiểu, bị nói! Hãy chín chắn xem lại: Giơ tay, bước chân, cúi đầu, xá chào… đó là gì?

Kỵ nhất, Đạo Ngô bảo Sùng Tín: “Nhận liền thì liền nhận, suy nghĩ liền sai.” Tâm yếu là đây!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14775)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11840)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12772)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10354)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12072)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15302)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11091)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10551)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12484)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16438)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14322)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11802)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14818)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12041)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16865)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12745)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11353)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52170)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15478)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13977)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11453)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13192)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12794)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13231)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17924)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12462)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12659)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54220)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14438)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9937)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13830)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58003)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14516)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20159)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13802)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15415)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17504)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13326)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11942)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13499)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14677)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12502)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12163)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12074)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13300)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12550)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13673)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13338)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25614)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12189)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14566)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11872)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42087)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28358)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38831)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14733)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12711)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16254)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant