Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi: Long Nha và Ý Của Tổ Sư Từ Tây Thiên Qua

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 14723)
Tắc thứ Hai Mươi: Long Nha và Ý Của Tổ Sư Từ Tây Thiên Qua

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 2

TẮC THỨ HAI MƯƠI

LONG NHA VÀ Ý CỦA TỔ SƯ TỪ TÂY THIÊN QUA

 

THÙY:Chồng chất đồi núi,va tường phá vách, trữ ý dụng cơ, luôn luôn ấm ức. Hoặc có một người bước ra lật đổ biển lớn, đá ngã Tu Di, hét tan mây trắng, đánh vỡ hư không.Lập tức với một cơ một cảnh làm líu lưỡi tất cả người trong thiên hạ, khiến các ông không còn chỗ mà mon men đến gần. Thử nói xem, xưa nay đã từng có ai như thế? Xin thử nêu lên xem.

CỬ: Long Nha hỏi Thúy Vi, “ Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?” Thúy vi nói, “Đưa dùm Thiền bản cho tôi coi.” Long Nha Thiền bản cho Thúy Vi, Thúy Vi tiếp lấy rồi đánh Long Nha.Long Nha nói, “Đánh thì cứ việc đánh, song cũng chẳng có gì nhằm nhò đến ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua cả!”

Long Nha lại hỏi Lâm Tế, “ Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?” Lâm Tế nói, “Đưa dùm bồ đoàn cho tôi coi.” Long Nha cầm bồ đoàn đưa cho Lâm Tế, Lâm Tế tiếp lấy rồi đánh Long Nha. Long Nha nói, “Đánh thì cứ việc đánh , song chẳng có gì nhằm nhò đến ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua cả!”

BÌNH: Thúy Nham Chi hòa thượng nói, “Lúc ấy thì như thế, ngày nay dưới da của các nạp tăng còn có máu không?” Qui Sơn Triệt nói, “Thúy vi và Lâm Tế đúng là những bậc thầy trong tông môn của chúng ta.” Long Nha vạch cỏ ngóng gió, quả là xứng đáng để làm gương mẫu cho người đời sau. Sau khi thầy ta trụ viện rồi, có ôngtăng hỏi, “ Bạch hòa thượng, lúc ấy ngài có đồng ý với hai vị tôn túc kia chăng?” Long Nha nói, “Đồng ý thì đồng ý, song chẳng có gì nhằm nhò đến ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua cả.” Long Nha nhìn trước nhìn sau, tùy bệnh cho thuốc.

Đại Qui thì không như thế. Lúc người khác hỏi lúc ấy Long Nhađồng ý với hai vị tôn túc kai không, hoặc Long Nha có hiểu hay không là thầy ta đánh ngay. Như thế không những là phù hợp với (tôn chỉ của) Thúy Vi và Lâm Tế mà còn không phụ lòng người hỏi nữa.

Thạch Môn thông nói, “Long Nha mà không bị dồn thì còn được, song nếu bị ông tăng nào đó hỏi dồn là mất ngay một con mắt.”

Tuyết Đậu nói, “Lâm Tế và Thúy Vi chỉ biết nắm chặt chứ không biết buông ra. Lúc ấy ta mà là Long Nha vừa bảo ta lấy Thiền bảnbồ đoàn là ta hẳn đã cầm lên rồi ném xuống ngay.”

Ngũ Tổ Giới nói, “Tại sao hòa thượng lại mặt dài như thế?” Lại nói, “ Sao Thổ tú của Tổ Sư ở ngay trên đầu.”

Hoàng Long Tân nói, “Long Nha dắt trâu của thợ cầy giựt đồ ăn của người đói. Một khi đã hiểu là hiểu, tại sao không có gì nhằm nhò đến ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua? Các ông có hiểu không? Đầu gậy mắt sáng như mặt trời, muốn biết vàng thật thử trong lửa.”

Phàm việc khích dương yếu chỉ, đề xướng tông thừa, nếu như có thể hiểu thấu được ngay khoảnh khắc đầu tiên, thì các ông mới có thể làm líu lưỡi tất cả mọi người trong thiên hạ, thảng hoặc các ông trù trừ, lập tức sẽ bị rơi vào hàng phụ thứ. Hai lão hán này (Lâm Tế và Thuy Vi) tuy là đánh mưa đánh gió, kinh thiên động địa, song chưa từng bao giờ đánh một người mắt sáng cả.

Cổ nhân tham Thiền gian khổ không phải là ít, lập chí khí đại trượng phu, trèo non vượt suối để tham kiến các bậc tôn túc. Long Nha thoạt tiên tham kiến Thúy Vi Lâm Tế, sau đó lại đến gặp Đức Sơn, hỏi Đức Sơn rằng, “ Lúc có kẻ học thiền cầm gươm Mạc Da đến toan lấy đầu thầy thì như thế nào?” Đức Sơn đưa cổ ra, hét lên. Long Nha nói, “Đầu thầy đã rụng rồi.” Đức Sơn mĩm cười rồi thôi.

Sau đó Long Nha lại đến gặp Động Sơn. Động Sơn hỏi “Ông mới từ đâu đến vậy?“ Long Nha nói, “Từ Đức Sơn” Động Sơn nói. “Đức Sơn đã nói gì vậy?” Long Nha bèn thuật lại câu chuyện kia. Động Sơn nói, “Thầy ta nói gì vậy?” Long Nha nói, “ Thầy ta chẳng nói gì cả.” Động Sơn nói, “Đừng có bảo là thầy ta không nói gì cả. Thử nhặt cái đầu rơi dưới đất của Đức Sơn trình lên cho lão tăng xem thử xem.” Nghe thế Long Nha tỉnh ngộ, bèn thắp hương hướng về phía (Tự viện của) Đức Sơn mà lạy sám hối. Khi nghe thầy thể Đức Sơn nói, “ Lão Động Sơn này không biết phân biệt hay dở, cái gã kia đã chết từ lâu rồi cứu sống lại để làm gì cơ chứ? Cừ để gã cầm đầu của lão tăng mà đi khắp thiên hạ.”

Long Nha bổn tính thông minh mẫn tiệp, đem đầy một bụng Thiền mà đi hành cước. Vừa đến Trường An gặp Thúy Vi đã hỏi, “ Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?” Thúy Vi nói, “Đưa dùm tôi Thiền bản coi.”Long Nha đưa Thiền bản cho Thúy Vi. Thúy Vi tiếp lấy rồi đánh Long Nha. Long Nha nói, “Đánh thì cứ việc đánh, song vẫn chẳng có gì nhằm nhò với ý Tổ Sư từ Tây Thiên qua cả.” Lại hỏi Lâm Tế, “ Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?” Lâm Tế nói, “Đưa dùm tôi bồ đoàn coi.” Long Nha đưa bồ đoàn cho Lâm Tế. Lâm Tế tiếp lấy rồi đánh Long Nha. Long Nha nói, “Đánh thì cứ việc đánh, song vẫn chẳng có gì nhằm nhò với ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua cả.”

Lúc Long Nha đặt câu hỏi quả thực không phải chỉ muốn thấy hai lão hán trên ghế thầy kia, mà còn muốn giải minh cả cái đại sự của chính mình nữa. Có thể nói là lời thốt ra không phí, sự thể trình ra không bừa bãi mà phát xuất từ nỗ lực của Long Nha.

Há không nghe chuyện Ngũ Duệ đến tham kiến Thạch Đầu, tự nhủ với mình trước rằng: “ Nếu như nghe một lời mà khế hợp được thì ở còn nếu không thì lại đi.” Thạch Đầu vẫn ngồi thản nhiên. Ngũ Duệ rũ áo bỏ ra. Thạch Đầu biết Ngũ Duệ là bậc Pháp khí cho nên mới rũ lòng khai mở cho, song Ngũ Duệ không hiểu được ý chỉ lại cáo từ mà đi. Vừa ra tới cửa, Thạch Đầu gọi, “Xà lê!”[31] Ngũ Duệ quay lại, Thạch Đầu nói, “ Từ sinh đến tử chỉ là cái này, chớ có quay đầu vặn óc mà tìm cái gì khác.” Nghe lời nói ấy Ngũ Duệ đại ngộ.

Ma Cốc cầm tích trượng đến gặp Chương Kính, đi quanh giường Thiền ba vòng, rồi chống tích trượng đứng sừng sững đó. Chương Kính nói, “Đúng đúng.” Ma Cốc lại đến gặp Nam Tuyền, cũng đi quanh ba vòng rồi chống tích trượng đứng sừng sững. Nam Tuyền nói, “ Sai sai. Đó là do sức gió quay cuồng cuối cùng thế nào cũng bại hoại.” Ma Cốc nói, “ Chưong Kính nói đúng, cớ sao hòa thượng lại nói sai?” Nam Tuyền nói, “ Chương Kính thì đúng, còn chú mới là sai.”

Cổ nhân quả thật phải nêu lên và nhìn thấu một sự kiện này. Người bây giờ mới bị hỏi đã chẳng vận dụng nỗ lực gì cả. Hôm nay như thế, ngày mai cũng chỉ như thế. Nếu như các ông cũng như thế thì có đến tận thế cũng chẳng bao giờ dứt. Cần phải phấn chấn tinh thần thì mới có phần nào phù hợp.

Thử nhìn xem Long Nha hỏi một câu, “ Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?” Thúy vi nói, “Đưa dùm tôi Thiền bản coi.”Long Nha đưa Thiền bản cho Thúy Vi. Thúy Vi tiếp lấy rồi đánh Long Nha. Lúc ấy khi Long Nha cầm Thiền bản lên há lại không biết rằng Thúy Vi sẽ đánh mình sao? Cũng không thể nói rằng thầy ta không hiểu, bởi vì tại sao thầy ta lại đưa Thiền bản cho Thúy Vi? Thứ nói xem, nếu như lúc ấy Long Nha đảm đương nổi cơ duyên ấy thì thầy ta hẳn đã làm gì rồi? Thầy ta không kiếm chỗ dụng trong nước sông[32] mà lại đi kiếm sống trong nước chết[33]? Luôn luôn đóng vai chủ chốt, Long Nha nói, “Đánh thì cứ việc đánh , song cũng chẳng có gì nhằm nhò đến ý của Tổ sư từ Tây Thiên qua cả.”

Long Nha cũng còn đến Hà Bắc để tham kiến Lâm Tế. lại cũng hỏi như trước. Lâm Tế nói, “Đưa dùm tôi bồ đoàn coi.” Long Nha đưa bồ đoàn cho Lâm Tế. Lâm Tế tiếp lấy rồi đánh Long Nha. Long Nha nói, “Đánh thì cứ việc đánh, song cũng chẳng có gì nhằm nhò đến ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua cả.” Thử nói xem, hai vị tôn túc này không phải là truyền thừa của cùng một dòng, tại sao câu trả lời lại giống nhau? Chỗ dụng xứ cũng cùng một loại? Nên biết rằng cổ nhân dù một lời một câu chẳng từng bao giờ nói bừa cả.

Sau này lúc Long Nha trụ viện có ông tăng hỏi, “ Bạch hòa thượng, lúc ngài gặp hai vị tôn túc kia, ngài có đồng ý với họ chăng? Long Nha nói, “Đồng ý thì đồng ý với họ chăng?” Long Nha nói, “Đồng ý thì đồng ý, song cũng chẳng có gì nhằm nhò đến ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua cả.” Trong bùn mủn có gai, buông tha cho người là cũng đủ rơi voà hành phụ thứ rồi. Lão hán nay bình tĩnh thật, đúng là bậc tôn túc trong dòng của động sơn. Nếu muốn làm môn hạ của Đức Sơn Lâm Tế thì phải biết rằng có một sinh nhai khác nữa. Nếu như là sư núi tôi thì sẽ không thế, tôi hẳn chỉ nói với ông tăng kia, “Đồng ý thì đồng ý, song cũng vẫn chẳng có gì nhằm nhò đến ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua cả.”

Há không nghe chuyện có ông tăng hỏi Đại Mai, “ Thế nào là ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua?” Đại Mai nói, “ Từ tây Thiên qua chẳng với ý gì cả.” Diêm Quan nghe thấy câu chuyện này nói, “ Một cỗ quan tài hai người chết.” Huyền Sa nghe thấy thế nói, “ Diêm Quan đúng là tay thành thạo.” Tuyết Đậu nói, “ Có tới ba người chết vậy.” Ông tăng hỏi về ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua, Đại Mai lại nói là chẳng có ý gì cả. Nếu như các ông hiểu như thế sẽ bị rơi ngay vào chỗ vô sự. cho nên mới có câu nói, “ Nên tham câu sống[34] chứ đừng tham câu chết.”[35]. Nếu như nơi câu sống mà hiểu được thì trọn kiếp không quên, còn nếu dựa vào câu chết mà hiểu, thì tự cứu mình cũng chẳng xong.

Khi Long Nha nói như thế, quả thực là thầy ta đã nỗ lực hết sức. Cổ nhân nói, “Tương tục là một điều rất khó.” Các bậc cố nhân khác cũng chẳng hề dùng bừa một lời hay một câu của mình. Lúc nào cũng tiền hậu tương chiếu có quyền có thực, có chiếu có dụng, chủ khách rõ ràng, ngang dọc tương xứng.

Nếu như các ông muốn phân biện rõ ràng, Long Nha tuy không mờ tối về tông thừa của chúng ta, song tại sao lại bị rơi vào hàng phụ thứ? Lúc hai vị tôn túc kia đòi Thiền bảnbồ đoàn, Long Nha không thể nào không biết ý của họ, song chỉ vì thầy ta muốn sử dụng cái ở trong đáy lòng của mình. Tuy là Long Nha đúng, song chỗ dụng của thầy ta không khỏi có hơi cao xa quá. Long Nha hỏi như thế, hai vị tôn túc kia trả lời như thế, tại sao lại không có gì nhằm nhò đến ý của Tổ sư từ Tây Thiên qua? Đến chỗ này rồi, các ông nên biết rằng còn có một chỗ kỳ đặc nào khác. Tuyết Đậu nêu lên cho thiên hạ thấy.

TỤNG:

Trong núi Long Nha rồng không mắt,

Nước chết làm sao chấn cổ phong?

Thiền bản bồ đoàn không dùng được

Chỉ cần đem trao cho Lô công.[36]

BÌNH: Tuyết Đậu đoán định công án này theo các dữ kiện. Tuy thầy ta tụng như thế, song thử nói xem ý thầy ta ở chỗ nào? Không mắt ở chổ nào? Nước chết ở chỗ nào? Đến chỗ này cần phải có biến thông mới được. cho nên mới nói, “Hồ trong không để rồng cuộn khúc. Nước đọng làm sao có mãnh long?” Há không nghe nói” nước đọng không chứa rồng” sao? Nếu như là con rồng sống thì cần phải đến chỗ sóng lớn bập bềnh ba đào cuộn trào. Đây có ý nói rằng Long Nha đi vào nước chết cho nên bị người khác đánh. Song thầy ta lại nói, “Đánh thì cứ việc đánh, song cũng chẳng có gì nhằm nhò đến ý của Tổ Sư từ Tây Thiên qua cả.” Khiến cho Tuyết Đậu nói, “ Nước chết làm sao chấn cổ phong?” Tuy nhiên như thế, song thử nói xem Tuyết Đậu ủng hộ Long Nha hay là hạ thấp quang huy của thầy ta?

Người ta thường hiểu lầm, nói rằng, “Tại sao lại chỉ cần đem trao cho Lô công?” Đâu có biết rằng Long Nha quả thật đem chúng cho người khác. Phàm khi tham thỉnh( các bậc tôn túc) cần phải phân biện được ngay cơ duyên, thì mới mong thấy được chỗ gặp gỡ của các cổ nhân. “Thiền bản đồ đoàn không dùng được.” Thúy Vi nói, “Đưa dùm Thiền bản cho tôi coi.” Long Nha bèn đưa Thiền bản cho thầy ta, như thế há không phải là kiếm sống trong nước chết sao? Rõ ràngLong Nha được trao cho một con ngựa quí, có điều thầy ta không biết cưỡi mà thôi. Đó là không biết dụng vậy.

“ Chỉ cần đem trao cho Lô công.” Người ta thường nói Lô công là Lục Tổ, nói thế là sai. Chưa từng bao giờ cho người khác,nếu như bảo là đem cho người khác để mà đánh người ta, thì là cái gì vậy?[37] Tuyết Đậu đã từng tự xưng là Lô công trong bài “ Hối Tích Tự Di” rằng, “ Bức họa năm xưa yêu Động Đình, trong sóng bảy mươi hai đỉnh cao. Giờ đây nằm khểnh nhớ chuyện cũ, vẽ thêm Lô công dựa vách đá.” Tuyết Đậu muốn vượt qua đầu Long Nha, song lại sợ thiên hạ hiểu lầm, cho nên lại tụng thêm để cắt đứt hết các chỗ nghi ngờ của thiên hạ. Tuyết Đậu lại nêu lên rằng:

TỤNG:Lão hán này chưa chấm dứt được cho nên lại làm thêm một bài tụng nữa:

Cho Lô công rồi nương vào đâu?

Ngồi dựa thôi đừng tiếp Tổ đăng.

Đáng nói, mây chiếu về chưa đủ,

Núi xa vô hạn xanh biếc xanh.

BÌNH: “ Cho Lô công rồi nương vào đâu?” Cần phải nhìn thẳng vào đây mà hiểu, chứ đừng tựa cây đợi thỏ. Đập vỡ tất cả những gì trước đầu, đừng giữ lại chút gì trong lòng cả. Buông thả và tự tại, cón cần gì để dựa vào nữa? Ngồi hay là dựa cũng chẳng đáng để xem là Phật Pháp. Cho nên Tuyết Đậu mới nói, “ Ngồi dựa thôi đừng tiếp Tổ Đăng.” Tuyết Đậu một lúc nêu trọn cả, thầy ta có chỗ xoay chuyển, cuối cùng lại để lộ chút ý chỉ. Tuyết Đậu nói, “Đáng nói, mây chiều về chưa đủ.” Thử nói xem, ý của Tuyết Đậu ở chổ nào? Lúc mây chiều về sắp họp lại song chưa họp lại với nhau thì như thế nào? “ Núi xa vô hạn xanh biếc xanh.” Cũng y như trước xông tận vào hang ma. Đến chỗ này rồi cắt đứt tất cả được mất thị phi, đạt được tự do tự tại, thì mới là đắc được chút gì. “ Núi xa vô hạn xanh biếc xanh.” Thử nói xem, đó là cảnh giới của Văn Thù, cảnh giới của Phổ Hiền, hay là cảnh giới của Quan Âm. Đến đây rồi thử nói xem đó là chuyện của ai? 
 
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Thước của người xưa: “xích”.

[2] Câu này không có trong bản của Cổ Phương Thiền Sư.

[3] “Pháp khí” có nghĩa là dụng cụ để chứa đựng Pháp, ngụ ý chỉ những người có khả năng trao truyền Phật Pháp lại cho hậu thế.

[4] Xin xem thêm trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, cùng một dịch giả, sẽ xuất bản.

[5] Kim ô có nghĩa là mặt trời.

[6] Ngọc thỏ có nghĩa là mặt trăng.

[7] Miết có nghĩa là con ba ba.

[8] Lục Đại Phu, theo sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục từng làm Tuyên Châu thứ sử, là học trò của Nam Tuyền Phổ Nguyện.

[9] “Ngũ ấm” hay “ngũ uẩn” có nghĩa là năm tổ hợp (skandla) các thành tỏ của hiện hữu. Đó là sắc (rù pà), thụ (vedanà), tưởng (samjinà), hành (samskàrà) và thức (vijnana) uẩn.

[10] “nạp” có nghiã là thứ áo do nhiều mảnh vá chắp thành mà các nhà sư hay mặc. Do đó từ ngữ “nạp tăng” dùng để chỉ một tu sĩ Phật giáo.

[11] Nguyên văn: “ứng cơ”, có nghĩa là tùy theo hoàn cảnh ( mà dẫn dắt người đời).

[12] Đọan này bản của Ito Yeten hơi khác với bản của Cổ Phương Thiền Sư, chúng tôi dựa theo bản của Cổ Phương.

[13] Chữ “ngư”và chữ “lỗ” trông hơi giống nhau nên thường bị lầm với nhau. Thành ngữ “ ngư lỗ sâm si” có ý nói cái đa đoan của thế giới hiện tượng.

[14] Đề Bà tức Aryàdeva (hay Kànadeva) theo truyền thuyết là học trò của Long Thụ (Nàgàrjuna), được truyền thống Thiền lập làm tổ thứ mười lăm. Về Aryàdeva xin xem P.L.Vaidya Études sur Aryadeva et son Catuhsataka. Paris, 1923.

[15] Long Thụ tức Nàgàjuna, tư tưởng gia vĩ đại nhất của Phật Giáo Đại Thừa.

[16] Chín mươi sáu loại tà kiến: theo Cát Tạng trong Tam luận Huyền Nghĩa thì chín mươi sáu thứ tà kiến này dựa trên các kiến chấp căn bản như chấp tà nhân tà quả, vô nhân hữu quả, hữu nhân vô quả, vô nhân vô quả, cùng các kiến chấp về đoạn hay thường.

[17] Nguyên văn: “nhất sắc biên sự”.

[18] Diêm Phù tức Diêm Phù Đề Châu (Jambudvìpa). Về ý nghĩa của Diêm Phù Đề Châu trongvũ trụ luận của Phật Giáo xin xem: Randy Kloetzli, Buddhist Cosmology. Nêw Delhi, 1983. 

[19] Thiều Dương Lão Nhân tức là Vân Môn Văn Yển Thiền Sư.

[20] Do tuần (nayuta) một đơn vị đo lường trong huyền thoại Phật giáo. Xem chú thích số 1.

[21] Hồ có nghĩa là người Ấn Độ.

[22] Chữ “pháp” trong Phật giáo có rất nhiều nghĩa. Ở đây chữ “pháp” được dùng lần lượt với ý nghĩa là “giáo lý của đức Phật” và “ các hiện tượng” hay “ dữ kiện”.

[23] Bản của Ito yuten: “ nễ” (các ông), bản của Cổ Phương Thiền Sư: “tha” (Vân Môn)

[24] Tứ chúng là Tỳ khưu, tỳ khưu ni, ưu bà tắc (nam cư sĩ),và ưu bà di (nữ cư sĩ)

[25] Bản của Ito Yuten: Một quyền đấm đổ núi Tu Di, một đạp đạp tung nước biển lớn.

[26] Loạn An Lộc Sơn xảy ra vào năm 755

[27] “Tha tâm thông”: phép thần thông thấu hiểu được tâm ý của người khác, do tu Thiền định mà đạt được. Đây là một trong “Lục thông” (sáu phép thần thông) hay sáu “thông mốt”

[28] Xem Kinh Hoa Nghiêm và Kim Sư Tử Chương của Pháp Tạng.

[29] Xem Kinh Hoa Nghiêm và Kim Sư Tử Chương của Pháp Tạng.

[30] Tây Viên là học trò của Mã Tổ Đạo Nhất.

[31] “Xà lê” là dịch âm của chữ Phạn àcàrya có nghĩa là “thầy”

[32] “Tử thủy”.

[33] “Hoạt thủy”. Về ý nghĩa của hai chữ này xin xem Chang Chen Chi, The Practice of Zen. New York, 1957, passim.

[34] “Hoạt cú”.

[35] “Tử cú”. Xem chú thích số 3.

[36] Cổ Phương Thiền Sư cũng chú thích đó là danh hiệu Tuyết Đậu tự xưng mình.

[37] Câu này bản của Ito Yuten không có.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15705)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16398)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23625)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17516)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81358)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19615)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20263)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47471)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39239)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15849)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23261)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19296)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15219)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16827)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13098)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13162)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49047)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23364)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19451)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17197)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32170)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27499)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14346)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14818)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18651)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16448)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13944)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17307)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19417)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28075)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14421)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16971)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22209)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23352)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28056)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64901)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33273)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40226)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25165)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50284)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38596)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27368)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28626)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52284)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35931)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32941)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50895)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74959)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36186)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49037)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31050)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33984)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28952)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58878)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46306)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43861)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43255)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45983)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48066)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant