Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Dẫn nhập

27 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11351)
Chương 1: Dẫn nhập

XÃ HỘI HỌC PHẬT GIÁO
Buddhist Sociology
Nandasena Ratnapala - Thích Huệ Pháp dịch
Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn 2011

Chương 1: Dẫn nhập

Siddhārta Gautama được hàng triệu phật tử trên khắp năm châu tôn xưng là đức Phật hay đức Phật Cồ-Đàm ra đời vào khoảng 556 năm trước Tây Lịch, tại thành Kapilavathu, phía bắc Ấn Độ nay thuộc nước Nê-Pal. Để tìm chân lý giải thoát khổ đau cho nhân sinh, Ngài đã kinh qua nhiều triết thuyếthệ thống đạo giáo khác nhau đương thời. Cuối cùng, bằng nỗ lực cá nhân, Ngài đã khám phá một con đường mới chính là Bát Chánh Đạo. Con đường này giúp chúng ta hiểu được Tứ Thánh Đế và vì thế chấm dứt khổ đau, đoạn tận luân hồi.

Tư tưởng của Phật giáo nằm trong ba bộ kinh thường được gọi là Tam Tạng kinh điển (the Tripiṭaka) gồm có: Kinh tạng, Luật tạngLuận tạng. Kinh điển không được ghi chép trong thời đức Phật còn tại thế. Lời dạy của Ngài được ghi nhớ và khẩu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác cho tới năm 29 - 17 trước Công nguyên. Tam tạng Thánh điển được ghi chép lại ở Aluvihāre, Matale, Sri-Lanka(1).

Tác phẩm này được dựa trên tư tưởng Phật giáo bao gồm nhiều chương khác nhau mà các nhà xã hội học hay nhân loại học ngày nay quan tâm nghiên cứu. Tài liệu chính sử dụng trong quyển sách này được lấy từ các bản kinh thuộc Phật giáo Nguyên thủy. Những bản kinh thuộc hệ Pāli thời kỳ đầu là những nguồn khảo cứu có độ chính xác cao được người nghiên cứu quan tâm hàng đầu. Những kinh văn Pāli và Sanskrit giai đoạn sau chỉ được dùng để triển khai hay làm sáng tỏ những lời dạy của đức Phật được tìm thấy tư tưởng Phật giáo Nguyên thủy.

Trong công việc phiên dịch các dữ liệu thu thập được, người nghiên cứu sử dụng phương pháp so sánh giữa các bản Kinh và Luật làm nguyên tắc chủ đạo. Trong chừng mực có thể, người nghiên cứu cũng sử dụng những Luận giải của các vị Tổ sư được lưu giữ trong Luận tạng. Để hiểu hơn lời Phật dạy, ngoài sưu tầm nghiên cứu, việc tái khám phá hay tái kiểm chứng thông qua thực hànhviệc làm hết sức cần thiết. Vì thế, người nghiên cứu hết sức thận trọng để tìm hiểu tư tưởng Phật giáo một cách trọn vẹnáp dụng nó vào những tình huống sống động trong cuộc sống hiện đại.

Tư tưởng về xã hội của Phật giáo không tập trung trong một bộ kinh hay một quyển kinh nào. Vì thế, người nghiên cứu phải đọc hầu như toàn bộ ba tạng kinh điển để thu thập những dữ liệu có liên quan đến xã hội, sau đó liên kết chúng lại nhằm hệ thống hóa học thuyết xã hội một cách mạch lạc. Ta nên biết rằng, đức Phật không bao giờ giảng dạy để tạo ra một hệ thống xã hội hay bất cứ học thuyết nào, mà chỉ đem lại giải thoát khổ đau cho chúng sanh.

Trong khi nghiên cứu về tư tưởng xã hội học của Phật giáo, người nghiên cứu sử dụng chủ yếu hai tạng Kinh và Luật, bởi hầu hết tư tưởngliên quan đến xã hội đều nằm trong hai bộ này. Còn Luận tạng - được các nhà Ấn Độ học quan tâm xem như là nguồn tham khảo thứ ba khi nghiên cứu Kinh và Luật - cũng được người nghiên cứu rất thận trọng khi tham khảo nhưng chỉ sử dụng vài điểm trong bộ này.

Nếu muốn phát triển bộ môn xã hội học Phật giáo - những lời dạy của đức Phật về xã hội - buộc ta phải nghiên cứu, thâm nhập Kinh, Luật một cách toàn diện. Tác phẩm này chỉ là một đề cương, một nỗ lực khiêm tốn để khuyến khích và cổ vũ giới học giả xã hội học và nhân loại học tiếp cận vào mảnh đất màu mỡ, đầy triết lý của tư tưởng Phật giáo trong tương lai.

Các chương trong quyển sách này được sắp xếp theo một thứ tự đặc biệt với ý tưởng phác thảo những nét chính của xã hội học Phật giáo. Các chương đầu tiên đề cập về các vấn đề như gia đình, quá trình xã hội hóa, các thể chế xã hội (như kinh tế, chính trị, tôn giáogiáo dục), rồi tiếp đến là chương nói về thân phận phụ nữ, phân tầng xã hội, các vấn đề xã hội (như rượu, ma túy), bạo hànhchủ nghĩa khủng bố, cấu trúc xã hội, sức khoẻ và cuối cùng là chương nói về tội phạm và các vấn đề liên quan đến sự trách phạt. Mục tiêu của quyển sách này là chú ý trọng tâm tới những điều mới mẻ và thực tiễn của Phật giáo trong việc hội nhập hoàn toàn vào xã hội hiện đại.

Thế giới ngày nay đang phải vật lộn để tìm ra phương pháp giải quyết hàng nghìn vấn đề nan giải tồn tại trong xã hội. Nhiều triết lý hay học thuyết đã từng một thời được xem là kim chỉ nam đã không còn thích hợp với những vấn đề mới phát sinh trong xã hội hiện nay. Tư tưởng xã hội Phật giáo nếu được nghiên cứu sâu hơn từ các quan điểm về xã hội học và nhân loại học thì có thể cung cấp những giải pháp thú vị cho những vấn đề nan giải như thế.

Liên quan đến vấn đề này, xin trích dẫn sơ lược vài ví dụ. Nền dân chủchúng ta thường đề cập tới được hiểu theo tư tưởng Phật giáo là một lối sống. Đó không phải chỉ là tiến trình bầu cử lựa chọn người lãnh đạo hay là sự tự do bày tỏ quan điểm cá nhân. Dân chủ theo Phật giáo đòi hỏi giới cầm quyền phải có những phẩm chất nào đó để lãnh đạoxem xét điều gì là cần thiết để thiết lập sự tự do bày tỏ quan điểm cá nhân. Thậm chí, một quyết định theo đa số cũng chưa thể xem là dân chủ khi nó mâu thuẫn với chân lý. Trong kinh điển đã cẩn thận nêu ra những cách thức và phương tiện để đạt được sự đồng thuận của người dân trước một vấn đề nào đó.

Phật giáo nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục trong một quốc gia dân chủ. Dân chủ sẽ không phát huy nếu người lãnh đạo và dân chúng thiếu giáo dục. Một khi sự phân biệt giữa hai giai cấp thống trị và bị trị giảm tới mức thấp nhất, cán cân quyền lực chia đều nhau ở cả hai bên thì sẽ không có tình trạng độc chiếm quyền lực mãi mãi, trái lại thay phiên nhau nắm quyền. Mặt khác, khi phân tích học thuyết về quyền lực, Phật giáo nêu ra năm loại quyền lực khác nhau và nhấn mạnh đến quyền lực về trí tuệ như là một nhân tố chính điều khiển bốn quyền lực còn lại. Nếu khôngtrí tuệ thì những quyền lực khác như giàu sang, quần chúng, địa vịdòng dõi sẽ trở nên vô nghĩa.

Sự hòa nhập xã hội theo quan điểm của Phật giáo là một kinh nghiệm có được trước khi chúng ta sinh ra (còn trong bụng mẹ), hoặc dĩ nhiênliên quan đến nhiều kiếp trước. Đức Phật giải thích giai cấp không có liên quan đến dòng dõi gia đình mà do chính hành động của một người tạo nên. Ngài đưa ra một lý thuyết kinh tế mà từ đó giúp cho mọi tầng lớp trong xã hội có cơ hội công bằng để tiếp cận các nguồn vật chấttinh thần bằng chính nỗ lực của bản thân và cũng như không cho phép bất kỳ cá nhân nào bóc lột xã hội vì sự ích kỷ của mình.

Về tội phạmhình thức khiển trách được Phật giáo quan sát từ những khía cạnh khác nhau. Việc khiển trách khi thực hiện với mong muốn người phạm tội sẽ lại trở thành một công dân tốt hay là khiến họ phạm tội nhiều hơn và bị xã hội xa lánh? Luật án treo Parivāsa là bộ luật trọng tâm trong giới luật Phật giáo. Ta nên nghiên cứu và phân tích những điều luật này để khám phá nhiều điều hữu ích có liên quan đến hình thức xử trị ngày nay.

Mối quan tâm tuyệt đối của Phật giáo về vấn đề môi trường là một lãnh vực quan trọng kế tiếp. Môi trường không chỉ có loài người mà còn bao gồm hệ thực vậtđộng vậttoàn thể thiên nhiên. Tôn trọng cuộc sống bắt đầu từ loài người, sau đó mở rộng đến các loài động vật, thực vật, và cho đến trái đất, mặt trời, mặt trăng, các vì sao v.v... Nếu quy tắc tôn trọng này được thực hiện một cách nghiêm túc thì thiết lập được sự thăng bằng giữa con ngườithiên nhiên.

Bạo hànhkhủng bố đã trở thành một ‘hiện tượng tự nhiên trong thế giới hiện nay. Những hành vi khủng bố hay bạo động hầu như xảy ra hằng ngày trong thế giới chúng ta. Làm thế nào để giảm thiểu hành vi khủng bố, bạo lực và ngăn chặn không cho chúng xảy ra? Làm thế nào để giải thích trọn vẹn ý nghĩa bất hại (non-violence) và áp dụng chúng để đem lại lợi ích cho các loài hữu tình? Các vấn đề này đã được phân tích và ghi lại trong kinh điển Phật giáo.

Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là con người, trong khi đó, xã hội học Phật giáo có những bước nghiên cứu xa hơn không chỉ nói về con người mà còn đề cập đến các loài hữu tình khác như động thực vật, các loài phi nhân v.v.. Nhãn quan của xã hội học Phật giáo rộng hơn nhiều so với xã hội học thông thường. Xã hội học Phật giáo nỗ lực quan sáttìm hiểu phản ứng không chỉ của con người với con người trong đời này mà còn ở những đời khác trong vòng sinh tử luân hồi.

Quan điểm của Phật giáo đối với các vấn đề xã hội có tính thực tế. Loài người bị tham ái chế ngự, vì thế các vấn đề xã hội khó mà dập tắt. Cố gắng giải quyết hoàn toàn các vấn đề xã hộiviệc làm không tưởng, phương pháp tốt nhất là tìm hiểuhòa giải với chúng. Thái độ này giúp chúng ta kiểm soát được chúng, đó chính là một giải pháp mang tính thực tế.

Hiểu mình, biết người sẽ cho chúng ta một cuộc sống an lạchạnh phúc, giảm thiểu đến mức thấp nhấp xung đột nội tại và ngoại tại. Rất thường xảy ra việc tự mình xung đột với chính bản thân mình sau đó lan sang cho kẻ khác. Càng ít xung đột nội tại, thì càng ít xung đột với tha nhân. Xã hội học Phật giáo mở đường cho một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạn chế thấp nhất cuộc chiến tự thân và tha nhân.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14803)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11867)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12804)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10382)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12097)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15324)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11128)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10577)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12500)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16468)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14352)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11833)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14846)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12064)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16902)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11618)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12769)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11374)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12088)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52240)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15506)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13997)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11474)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13219)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12815)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13255)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17941)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12479)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12704)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54254)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14454)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 9963)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13843)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58051)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14542)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20180)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13831)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15443)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17530)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13342)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11953)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13517)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14695)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12517)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12178)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12090)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13318)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12568)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13683)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13359)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25643)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12207)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14589)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11890)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42114)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28382)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38845)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14745)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12726)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16261)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant