Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 11

11 Tháng Mười 201000:00(Xem: 10129)
Chương 11

CHƯƠNG 11
BA MƯƠI HAI ĐIỀU THÀNH TỰU
DANH HIỆU BỒ TÁT 

 

11. Ba mươi hai điều thành tựu danh hiệu Bồ Tát.

Đoạn quan trọng nhất trong Kinh là đoạn này:

“Hỡi này, Ca Diếp, một bậc Bồ Tát (đúng nghĩa) không phải chỉ là một bậc Bồ Tát trên danh hiệu thôi. Đó là kẻ thực hành được những thiện pháp, thực hành lòng bình đẳng, như thế mới gọi là một bậc Bồ Tát. Nói lược cho gọn lại, kẻ nào thành tựu được ba mươi hai điều này thì mới được gọi là một bậc Bồ Tát. Ba mươi hai điều ấy là những điều nào?

Tâm bình đẳng là gì? Đây là thuật ngữ đặc biệt của Phật Giáo, không có nghĩa thông thường giống như ý nghĩa bình đẳng quen dùng trong đời sống hằng ngày. Bình đẳng trong dụng ngữ Phật Pháp có nghĩa là Bất Nhị không phân ra hai phần tách biệt đối nghịch lẫn nhau, không có hai tướng, hai thể, hai tánh. Bình Đẳng đồng nghĩa rằng không có sự phân biệt, không giống, không khác, không một, không hai, không sinh, không diệt, không đến, không đi, không thường, không đoạn.

Tại sao nói đến 32 pháp thành tựu danh hiệu Bồ Tát? Tại sao lại là pháp số ba mươi hai? Tám điều tiêu cực ở phần đầu và 24 điều tiêu cực được khai triển sau đó, cộng lại nhau thành 32 điều tiêu cực. Phải chăng 32 điều thành tựu tích cực của Bồ Tát ở đây là để đối trị 32 điều tiêu cực kể trên về việc đánh mất Bồ Đề Tâm? Có chăng sự liên hệ trực tiếp hay gián tiếp giữa 32 tướng đại nhân, 32 tướng của chư Phật, 32 thân ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát và 32 pháp thành tựu của Bồ Tát? Đi sâu vào những sự liên hệ bất ngờ này có thể khai mở ra những cõi bất tư nghị khác của Phật Pháp, nhưng đối với chúng ta hiện nay, những điều khó hiểu này chưa cần phải được liễu nghĩa ngay bây giờ; chúng ta chỉ cần trì tụng giữ nhớ 32 pháp thành tựu sau đây để thực hành tu học, mong được trở thành bậc Bồ Tát đúng chân thực nghĩa, đúng như danh hiệu Bồ Tát thực thụ:

Tóm lại, người thành đạt được 32 điều mới được gọi là một bậc Bồ Tát. Ba mươi hai điều ấy là những điều nào vậy?

1. Thiết tha mong mỏi đem đến thanh bìnhhạnh phúc cho chúng sinh, đem an lạc cho chúng sinh;

2. Khiến giúp cho tất cả chúng sinh được an trú trong Trí Huệ Hiểu Biết Tất Cả (an trụ trong Nhất Thiết Trí);

3. Không thù ghét, ganh ghét trí huệ của người khác;

4. Phá vỡ tính kiêu ngạo ngã mạn của mình;

5. Vui sống khoan khoái hoan lạc trên con đường của chư Phật (Phật Đạo);

6. Thương yêutôn kính tất cả chúng sinh một cách chân thành tha thiết;

7. Vẫn giữ lòng tốt trọn vẹn, đồng đều đối với bạn thân và với kẻ thù cho mãi đến khi đạt tới Niết Bàn;

8. Luôn luôn nói chuyện với miệng mỉm cười và là kẻ đầu tiên chào hỏi trước tiên;

9. Không bao giờ ngừng lại giữa chừng lúc đang thực hiện công việc, không bỏ dở dang việc làm đã bắt đầu rồi;

10. Trải ra Lòng Đại Bi một cách bình đẳng cho tất cả chúng sinh;

11. Tìm tòi tu học, học tập sâu rộng (đa văn) không mỏi mệt, không hề chán;

12. Tự tìm ra những lỗi lầm của chính mình, chớ không nói đến những khuyết điểm hay lỗi lầm của người khác;

13. Nhất cử, nhất động, trong mỗi oai nghi, đều được hứng khởi từ Bồ Đề Tâm;

14. Thực hành việc ban ơn, bố thí, giúp đỡ người khác mà chẳng cần đáp trả, chẳng cần người ta tri ơn báo đáp cho mình;

15. Giữ gìn giới luật mà chẳng vì mục đích đầu thai lên cõi cao đẹp hơn;

16. Tu hành thực hiện đức Nhẫn Nhục với lòng vô ngại khi sống giữa chúng sinh;

17. Cố gắng thực hành sự Siêng Năng Tinh Tấn để vun trồng tất cả thiện căn;

18. Tu hành thiền định mà không cần mong muốn tái sinh ở cõi vô sắc;

19. Thực hành thích ứng trí huệ cùng với phương tiện thiện xảo;

20. Ứng dụng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự);

21. Có lòng tốt, lòng từ đối với cả chúng sinh thiện và ác, đồng đều, không phân biệt kẻ ác hay kẻ hiền;

22. Lắng nghe Luật Pháp với sự tập trung tư tưởng, một cách nhất tâm;

23. Lòng an trụ viễn ly, tách biệt xa lìa, không trước nhiễm thế tục;

24. Lòng chẳng ưa thích những sự việc thế tục;

25. Không vui thích Tiểu Thừa, mà vẫn luôn luôn tìm thấy lợi ích lớn lao (về mặt tâm linh đạo lý) trong Đại Thừa;

26. Tránh xa những bạn xấu (ác tri thức) và gần gũi thân cận với bạn tốt;

27. Thành tựu bốn Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) và đạt được việc chủ trị ngũ thông (thần túc thông, thiên nhỉ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhãn thông);

28. Luôn luôn nương cậy vào trí huệ chân chính (Chân Trí);

29. Chẳng bỏ bất cứ chúng sinh nào, dù hành động của họ có đúng hay sai;

30. Luôn luôn nói năng đầy lòng quyết định, nhất quyết dứt khoát;

31. Quí trọng Chân Thực Pháp, tức là Phật Pháp;

32. Tâm Bồ Đề dẫn đầu mọi việc, hồi hướng tất cả hành vi, hành động của mình cho Bồ Đề, cho Giác Ngộ.

Hỡi này, Ca Diếp, nếu một người nào thành tựu được ba mươi hai pháp kể trên thì người ấy mới được gọi là một bậc Bồ Tát.”

Chúng ta thấy 32 điều trên lại trở lại điều thứ nhất ở phần mở đầu Kinh: quí trọng Chân Thực Pháp, quí trọng tôn kính Phật Pháp là điều thứ nhất ở đầu Kinh và cũng là điều sau ở cuối 32 pháp thành tựu Bồ Tát.

Từ bước đầu tiên đến bước cuối cùng, từ vô lượng kiếp quá khứ đến vô lượng kiếp vị lai, bất cứ ai muốn đi trên con đường Bồ Tát dẫn đến Bồ Đề vô thượng đều phải tôn kính quí trọng Phật Pháp với bao nhiêu ý nghĩa phong phú đã được khai triển sâu rộng ở trên.

Tất cả Phật Pháp đều bắt đầu và chấm dứt oanh liệt với Lòng Bồ Đề (Bồ Đề Tâm). Tôn kính Phật Pháp cũng đồng nghĩa với tôn kính Bồ Đề Tâm. Tôn trọng Bồ Đề Tâm có nghĩa là tôn trọng chúng sinh, đem lợi ích an vui, đem lại thanh bìnhhạnh phúc cho chúng sinh như điều thứ nhất trong 32 điều trên.

Trong Nhiếp Đại Thừa Luận, Tổ sư Vô Trước cũng đề cập đến 32 pháp mà Bồ Tát phải thành tựu mới được gọi là Bồ Tát, ngài Vô Trước đã trình bày 32 pháp thành tựu được trích dẫn từ kinh Phổ Minh Bồ Tát Hội tức là bản kinh xưa nhất làm căn nguyên, nguyên bản cho bộ Kinh Đại Bảo Tích (Maharatnakuta sutra) mà chúng ta đang đề cập tại đây. Theo Bồ Tát Vô Trước, 32 điều thành tựu Bồ Tát đều là những chi tiết được khai triển từ điều đầu: đem thanh bìnhhạnh phúc cho tất cả chúng sinh, làm lợi ích an lạc, yên vui cho tất cả chúng sinh.

Điều sau cùng cần thiết nhất là hồi hướng. Hồi hướng là gì? Những bậc Đạo sư thuộc tông phái Kadampa (mà Tổ sưThánh Tăng Atisa) trong truyền thống Phật giáo Mật Tông Tây Tạng đều giảng dạy rằng có hai điều trọng yếu cần phải nên ghi tạc tận đáy lòng của người tu hành Phật Pháp: phải bắt đầu mọi việc với một nguyên động lực thiện lành trong sáng và phải chấm dứt kết thúc mọi việc với sự hồi hướng đúng nghĩa.

Hồi hướng đúng nghĩa là gì? Là hồi hướng tất cả hành vi thiện lành trong sạch của thân, khẩu, ý với mục đích Giác Ngộ viên mãn cho sự an lạc lợi ích của tất cả chúng sinh. Lòng hồi hướng sâu thẳm nhất là hiệp nhất Phương Tiện Thiện Xảo với Trí Huệ Bát Nhã. Hồi hướng tất cả công đức cho tất cả chúng sinhđồng thời không quên Không Tánh: vô nhân, vô ngã, vô chúng sinh, vô thọ giả; tục đếchân đế dung nhập, phước và trí dung hòa, sắc và không giao chuyển nhịp nhàng trong tinh thần Bình Đẳng Bất Nhị siêu việt của Diệu Pháp hoạt hiện giữa lòng đời.

Xin tha thiết hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh và cầu mong tất cả chúng sinh đều tôn trọng Phật Pháptôn kính Pháp sư, đều thành tựu 32 điều thành đạt Bồ Tát, được chứng nhập Bồ Đề Tâm liên tục từ kiếp này đến kiếp khác và được đắc Bồ Đề Vô Thượng như tất cả chư Phật ở khắp mười phương...

 Sarva Mangalam.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49757)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34632)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33453)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43931)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57081)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47569)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39421)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38482)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52947)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36600)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32243)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40481)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43496)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31457)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46714)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36211)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28705)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29245)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31894)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28836)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33369)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29140)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60985)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39779)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26682)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29676)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37386)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40093)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26844)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42663)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37286)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28293)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28898)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26399)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27174)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26188)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34675)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27813)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30477)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33291)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28572)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30079)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25494)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21849)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51316)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26733)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28629)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27712)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24361)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27464)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31937)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30187)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27705)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35453)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27447)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30021)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31776)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23030)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24183)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23026)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant