Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 11

11 Tháng Mười 201000:00(Xem: 10132)
Chương 11

CHƯƠNG 11
BA MƯƠI HAI ĐIỀU THÀNH TỰU
DANH HIỆU BỒ TÁT 

 

11. Ba mươi hai điều thành tựu danh hiệu Bồ Tát.

Đoạn quan trọng nhất trong Kinh là đoạn này:

“Hỡi này, Ca Diếp, một bậc Bồ Tát (đúng nghĩa) không phải chỉ là một bậc Bồ Tát trên danh hiệu thôi. Đó là kẻ thực hành được những thiện pháp, thực hành lòng bình đẳng, như thế mới gọi là một bậc Bồ Tát. Nói lược cho gọn lại, kẻ nào thành tựu được ba mươi hai điều này thì mới được gọi là một bậc Bồ Tát. Ba mươi hai điều ấy là những điều nào?

Tâm bình đẳng là gì? Đây là thuật ngữ đặc biệt của Phật Giáo, không có nghĩa thông thường giống như ý nghĩa bình đẳng quen dùng trong đời sống hằng ngày. Bình đẳng trong dụng ngữ Phật Pháp có nghĩa là Bất Nhị không phân ra hai phần tách biệt đối nghịch lẫn nhau, không có hai tướng, hai thể, hai tánh. Bình Đẳng đồng nghĩa rằng không có sự phân biệt, không giống, không khác, không một, không hai, không sinh, không diệt, không đến, không đi, không thường, không đoạn.

Tại sao nói đến 32 pháp thành tựu danh hiệu Bồ Tát? Tại sao lại là pháp số ba mươi hai? Tám điều tiêu cực ở phần đầu và 24 điều tiêu cực được khai triển sau đó, cộng lại nhau thành 32 điều tiêu cực. Phải chăng 32 điều thành tựu tích cực của Bồ Tát ở đây là để đối trị 32 điều tiêu cực kể trên về việc đánh mất Bồ Đề Tâm? Có chăng sự liên hệ trực tiếp hay gián tiếp giữa 32 tướng đại nhân, 32 tướng của chư Phật, 32 thân ứng hiện của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát và 32 pháp thành tựu của Bồ Tát? Đi sâu vào những sự liên hệ bất ngờ này có thể khai mở ra những cõi bất tư nghị khác của Phật Pháp, nhưng đối với chúng ta hiện nay, những điều khó hiểu này chưa cần phải được liễu nghĩa ngay bây giờ; chúng ta chỉ cần trì tụng giữ nhớ 32 pháp thành tựu sau đây để thực hành tu học, mong được trở thành bậc Bồ Tát đúng chân thực nghĩa, đúng như danh hiệu Bồ Tát thực thụ:

Tóm lại, người thành đạt được 32 điều mới được gọi là một bậc Bồ Tát. Ba mươi hai điều ấy là những điều nào vậy?

1. Thiết tha mong mỏi đem đến thanh bìnhhạnh phúc cho chúng sinh, đem an lạc cho chúng sinh;

2. Khiến giúp cho tất cả chúng sinh được an trú trong Trí Huệ Hiểu Biết Tất Cả (an trụ trong Nhất Thiết Trí);

3. Không thù ghét, ganh ghét trí huệ của người khác;

4. Phá vỡ tính kiêu ngạo ngã mạn của mình;

5. Vui sống khoan khoái hoan lạc trên con đường của chư Phật (Phật Đạo);

6. Thương yêutôn kính tất cả chúng sinh một cách chân thành tha thiết;

7. Vẫn giữ lòng tốt trọn vẹn, đồng đều đối với bạn thân và với kẻ thù cho mãi đến khi đạt tới Niết Bàn;

8. Luôn luôn nói chuyện với miệng mỉm cười và là kẻ đầu tiên chào hỏi trước tiên;

9. Không bao giờ ngừng lại giữa chừng lúc đang thực hiện công việc, không bỏ dở dang việc làm đã bắt đầu rồi;

10. Trải ra Lòng Đại Bi một cách bình đẳng cho tất cả chúng sinh;

11. Tìm tòi tu học, học tập sâu rộng (đa văn) không mỏi mệt, không hề chán;

12. Tự tìm ra những lỗi lầm của chính mình, chớ không nói đến những khuyết điểm hay lỗi lầm của người khác;

13. Nhất cử, nhất động, trong mỗi oai nghi, đều được hứng khởi từ Bồ Đề Tâm;

14. Thực hành việc ban ơn, bố thí, giúp đỡ người khác mà chẳng cần đáp trả, chẳng cần người ta tri ơn báo đáp cho mình;

15. Giữ gìn giới luật mà chẳng vì mục đích đầu thai lên cõi cao đẹp hơn;

16. Tu hành thực hiện đức Nhẫn Nhục với lòng vô ngại khi sống giữa chúng sinh;

17. Cố gắng thực hành sự Siêng Năng Tinh Tấn để vun trồng tất cả thiện căn;

18. Tu hành thiền định mà không cần mong muốn tái sinh ở cõi vô sắc;

19. Thực hành thích ứng trí huệ cùng với phương tiện thiện xảo;

20. Ứng dụng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự);

21. Có lòng tốt, lòng từ đối với cả chúng sinh thiện và ác, đồng đều, không phân biệt kẻ ác hay kẻ hiền;

22. Lắng nghe Luật Pháp với sự tập trung tư tưởng, một cách nhất tâm;

23. Lòng an trụ viễn ly, tách biệt xa lìa, không trước nhiễm thế tục;

24. Lòng chẳng ưa thích những sự việc thế tục;

25. Không vui thích Tiểu Thừa, mà vẫn luôn luôn tìm thấy lợi ích lớn lao (về mặt tâm linh đạo lý) trong Đại Thừa;

26. Tránh xa những bạn xấu (ác tri thức) và gần gũi thân cận với bạn tốt;

27. Thành tựu bốn Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) và đạt được việc chủ trị ngũ thông (thần túc thông, thiên nhỉ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên nhãn thông);

28. Luôn luôn nương cậy vào trí huệ chân chính (Chân Trí);

29. Chẳng bỏ bất cứ chúng sinh nào, dù hành động của họ có đúng hay sai;

30. Luôn luôn nói năng đầy lòng quyết định, nhất quyết dứt khoát;

31. Quí trọng Chân Thực Pháp, tức là Phật Pháp;

32. Tâm Bồ Đề dẫn đầu mọi việc, hồi hướng tất cả hành vi, hành động của mình cho Bồ Đề, cho Giác Ngộ.

Hỡi này, Ca Diếp, nếu một người nào thành tựu được ba mươi hai pháp kể trên thì người ấy mới được gọi là một bậc Bồ Tát.”

Chúng ta thấy 32 điều trên lại trở lại điều thứ nhất ở phần mở đầu Kinh: quí trọng Chân Thực Pháp, quí trọng tôn kính Phật Pháp là điều thứ nhất ở đầu Kinh và cũng là điều sau ở cuối 32 pháp thành tựu Bồ Tát.

Từ bước đầu tiên đến bước cuối cùng, từ vô lượng kiếp quá khứ đến vô lượng kiếp vị lai, bất cứ ai muốn đi trên con đường Bồ Tát dẫn đến Bồ Đề vô thượng đều phải tôn kính quí trọng Phật Pháp với bao nhiêu ý nghĩa phong phú đã được khai triển sâu rộng ở trên.

Tất cả Phật Pháp đều bắt đầu và chấm dứt oanh liệt với Lòng Bồ Đề (Bồ Đề Tâm). Tôn kính Phật Pháp cũng đồng nghĩa với tôn kính Bồ Đề Tâm. Tôn trọng Bồ Đề Tâm có nghĩa là tôn trọng chúng sinh, đem lợi ích an vui, đem lại thanh bìnhhạnh phúc cho chúng sinh như điều thứ nhất trong 32 điều trên.

Trong Nhiếp Đại Thừa Luận, Tổ sư Vô Trước cũng đề cập đến 32 pháp mà Bồ Tát phải thành tựu mới được gọi là Bồ Tát, ngài Vô Trước đã trình bày 32 pháp thành tựu được trích dẫn từ kinh Phổ Minh Bồ Tát Hội tức là bản kinh xưa nhất làm căn nguyên, nguyên bản cho bộ Kinh Đại Bảo Tích (Maharatnakuta sutra) mà chúng ta đang đề cập tại đây. Theo Bồ Tát Vô Trước, 32 điều thành tựu Bồ Tát đều là những chi tiết được khai triển từ điều đầu: đem thanh bìnhhạnh phúc cho tất cả chúng sinh, làm lợi ích an lạc, yên vui cho tất cả chúng sinh.

Điều sau cùng cần thiết nhất là hồi hướng. Hồi hướng là gì? Những bậc Đạo sư thuộc tông phái Kadampa (mà Tổ sưThánh Tăng Atisa) trong truyền thống Phật giáo Mật Tông Tây Tạng đều giảng dạy rằng có hai điều trọng yếu cần phải nên ghi tạc tận đáy lòng của người tu hành Phật Pháp: phải bắt đầu mọi việc với một nguyên động lực thiện lành trong sáng và phải chấm dứt kết thúc mọi việc với sự hồi hướng đúng nghĩa.

Hồi hướng đúng nghĩa là gì? Là hồi hướng tất cả hành vi thiện lành trong sạch của thân, khẩu, ý với mục đích Giác Ngộ viên mãn cho sự an lạc lợi ích của tất cả chúng sinh. Lòng hồi hướng sâu thẳm nhất là hiệp nhất Phương Tiện Thiện Xảo với Trí Huệ Bát Nhã. Hồi hướng tất cả công đức cho tất cả chúng sinhđồng thời không quên Không Tánh: vô nhân, vô ngã, vô chúng sinh, vô thọ giả; tục đếchân đế dung nhập, phước và trí dung hòa, sắc và không giao chuyển nhịp nhàng trong tinh thần Bình Đẳng Bất Nhị siêu việt của Diệu Pháp hoạt hiện giữa lòng đời.

Xin tha thiết hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh và cầu mong tất cả chúng sinh đều tôn trọng Phật Pháptôn kính Pháp sư, đều thành tựu 32 điều thành đạt Bồ Tát, được chứng nhập Bồ Đề Tâm liên tục từ kiếp này đến kiếp khác và được đắc Bồ Đề Vô Thượng như tất cả chư Phật ở khắp mười phương...

 Sarva Mangalam.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13740)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25449)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13823)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15153)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17756)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17146)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14260)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13235)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14493)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19828)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16791)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18683)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19117)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18941)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21205)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14832)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39220)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19447)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14768)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16192)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14753)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15263)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14965)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15605)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39227)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14180)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24581)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14437)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19507)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18077)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19728)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17568)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14893)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13938)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13810)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14172)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21961)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16787)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15272)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14589)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14108)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14399)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15705)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14361)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15072)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18621)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23160)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28622)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15094)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14158)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14700)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18369)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26575)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15249)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14893)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15239)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15218)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant