Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Bốn Mươi Hai Chương

28 Tháng Tư 201100:00(Xem: 19488)
Kinh Bốn Mươi Hai Chương

KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG

(KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG
Ðời Hậu-Hán, Ngài Ca-Diếp Ma-Ðằng và Ngài Trúc Pháp-Lan dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Thích Thanh Cát dịch chữ Hán ra chữ Việt

Phần duyên khởi

Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài tự nghĩ : “Xa lìa mọi ham muốn, tâm được yên vui bình tĩnh. Tâm yên vui bình tĩnh là điều cao quý nhất. Chính Tâm ấy mới ở trong Ðại-định để hàng phục mọi ma chướng.”

Suy nghĩ xong, Ðức Phật đến vườn Lộc-Giả nói pháp Tứ-đế, độ anh em ông Kiều Trần Như, năm người đều chứng đạo quả. Tiếp đó có vị Tỳ-khưu lại muốn hỏi những điều còn nghi ngờ, xin Phật chỉ bảo cho các điều phải trái. Vì vậy, Ðức Thế-Tôn lại cặn kẽ dạy bảo khiến các vị Tỳ-khưu, ai nấy đều lĩnh hiểu rành mạch, và chắp tay kính cẩn đón nghe những lời Phật dạy.

I. Chứng quả xuất thế gian

Chương một

Ðức Phật dạy: Từ biệt người thân yêu, xuất gia tu đạo, biết tường tận tâm tính, hiểu thấu vô vi, gọi là Sa-môn. Thường giữ gìn 250 giới cấm, trong sạch, chăm làm các điều thiện, bỏ các sự ác, tu bốn đạo hạnh chân-chính, thành quả vị A-La-Hán. Ngôi nầy sống lâu mãi mãi, có thần thông biến hóa, đi bay đến nơi nào thì trời đất nơi ấy phải rung động.

Sau đến ngôi A-Na-Hàm, ngôi nầy khi hết tuổi thọ thế gian thì thần thức sẽ sinh lên cõi trời thứ 19 để dự vào ngôi A-La-Hán.

Sau đến ngôi Tư-Ðà-Hàm, ngôi nầy phải còn một lần sinh lên trời, một lần xuống nhân gian nữa, mới được lên ngôi A-La-Hán.

Sau hết là Tu-Ðà-Hoàn, ngôi này phải trải qua chín lần tử, chín lần sinh nữa mới được đến quả vị A-La-Hán.

Người đã đoạn tuyệt ái dục, không còn chạy theo ái dục, cũng như người đã chặt đứt chân tay, thì không còn dùng được tay chân ấy nữa.

II. Tu hạnh xuất gia

Chương hai

Phật dạy: Người xuất gia tu đạo, phải đọan bỏ ái dục, biết nguồn gốc tâm tính, hiểu nghĩa lý sâu xa và liễu-ngộ phép vô-vi của Phật.
Trong tâm không thấy phép gì để được, ngoài cảnh không còn môn gì để cầu. Tâm không cố chấp vào đạo, cũng không kết buộc thêm nghiệp. Không phải nhớ, không làm, không tu, không chứng, không phải trải qua các ngôi thứ, mà ngôi thứ độc-tôn ấy chính là đạo.

Chương ba

Phật dạy: Người cạo bỏ râu tóc, vào hàng Sa-môn, học đạo của ta, phải lìa bỏ của cải thế gian, chỉ cốt sao cho tạm đủ. Mỗi ngày mỗi bữa ăn giữa trưa, một giấc ngủ dưới gốc cây, không nên ăn, ngủ hai lần một ngày đêm.
Người bị mê lầm trụy lạc, đều do tâm yêu (ái) muốn (dục) sinh ra vậy.

Chương bốn

Phật dạy: Chúng sinh lấy mười điều là thiện, cũng lấy mười điều là ác. Ba điều về thân, bốn điều về miệng, ba điều về ý.
Ba điều về thân là: Giết hại, trộm cắp, dâm dục. Bốn điều về miệng là : Nói lưỡi đôi chiều, nói lời độc ác, nói thêu dệt, nói dối càn. Ba điều về ý là : Tham lam, giận tức, si mê.
Mười điều ấy thuận với chính-đạo, nói chung là mười điều thiện, trái lạimười điều ác.

Chương năm
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều. 
Nếu người có lỗi tự giác-ngộ, đổi ác làm lành, tội sẽ tiêu mòn. Ví như người đau ốm được ra mồ hôi, bệnh tật sẽ dần khỏi vậy.

Chương sáu
Phật dạy: Kẻ ác tâm, khi nghe thấy người ta làm điều thiện, hay sinh phá quấy. Nhưng các ông phải nín nhịn, đừng giận tức, trách mắng họ.
Kẻ trồng nhân xấu, sẽ tự hái quả xấu.

Chương bảy
Phật dạy: Kẻ xấu, nghe người ta tu đạo, làm những việc nhân từ. Họ cố đến mắng ta, ta im lặng, không nói lại một lời. Khi mắng xong, ta hỏi họ rằng : “Ngươi đem lễ vật biếu người khác, họ không nhận, lễ vật ấy có trả lại ngươi không ?” Kẻ xấu kia đáp: “Lễ vật đó về tôi vậy.”
Phật lại bảo: “Nay ngươi đến mắng ta, ta không nghe, lời mắng ấy lại trả lại ngươi và ngươi tự dìu lấy tội lỗi: nhân nào, quả ấy, như vang theo tiếng, như bóng theo hình, không thể tránh được. Vậy đừng nên làm điều ác.”

Chương tám
Phật dạy : Kẻ ác hại người hiền, cũng như ngửa mặt nhổ bọt lên trời. Bọt chẳng tới trời, trái lại bọt rơi mặt mình. Hay như tung bụi ngược gió, bụi không tới người bị tung, trái lại bụi trở lại tạt vào mình.
Kẻ ác hại người hiền cũng thế, người hiền không bị hại, mà chính kẻ ác tự hại mình trước.

III. Lập tín nguyện

Chương chín
Phật dạy : Kẻ học rộng biết nhiều, nhưng hiểu và tin đạo một cách nông cạn, không thể lãnh ngộ được ý đạo. Trái lại người biết giữ bền tâm chí, phụng sự đạo một cách chắc chắn, thì lý đạo mới hiểu sâu xa vậy.

IV. Tu lục-độ hạnh

1. Bố-thí độ

Chương mười
Phật dạy: Thấy người ta truyền bá đạo, mình giúp thêm hoan hỷ, sẽ được phúc rất nhiều.
Một vị sa môn hỏi Phật: “Phúc đem chia người khác có hết không?” Phật đáp: “Ví như bó đuốc cháy, hàng trăm, ngàn người cầm đuốc đến, châm lấy lửa đem về nấu thức ăn và đốt đèn sáng, mà lửa ở bó đuốc cháy đầu tiên kia vẫn còn nguyên. Vậy ông nên hiểu, phúc cũng như thế.”

Chương mười một
Phật dạy: Cho 100 người ác ăn, không bằng cho một người thiện ăn. Cho 100 người thiện ăn không bằng cho một người trì năm giới ăn. Cho một vạn người trì năm giới ăn, không bằng cúng dường một vị Tu-Ðà-Hoàn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu-Ðà-Hoàn, không bằng cúng dường một vị Tư-Ðà-Hàm. Cúng dường một ngàn vạn vị Tư-Ðà-Hàm, không bằng cúng dường một vị A-Na-Hàm. Cúng dường mười vạn vị A-Na-Hàm, không bằng cúng dường một vị A-La-Hán. Cúng dường một triệu vị A-La-Hán, không bằng cúng dường một vị Bích-Chi Phật. Cúng dường mười triệu vị Bích-Chi Phật, không bằng cúng dường một Ðức Phật trong ba đời. Cúng dường một trăm triệu Ðức Phật, không bằng cúng dường một vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng.

Chương mười hai
Phật dạy: Người ta có 20 điều khó làm:
Nghèo khổ biết bố thí là khó.
Giàu sang biết học đạo là khó.
Bỏ mình vì lẽ phải là khó.
Thấy được kinh Phật là khó.
Sanh nhằm đời có Phật là khó.
Nhịn sắc nhịn dục là khó.
Thấy thứ tốt không ham cầu là khó.
Bị nhục không giận tức là khó.
thế lực không ỷ là khó.
Gặp việc vô tâm là khó.
Học rộng nghiên cứu nhiều là khó.
Trừ diệt ngã mạn là khó.
Chẳng khinh người chưa học là khó.
Thực hành tâm bình đẳng là khó.
Chẳng nói sự phải quấy là khó.
Gặp được Thiện Tri Thức là khó.
Thấy tánh học đạo là khó.
Tùy duyên hóa độ người là khó.
Thấy cảnh không động tâm là khó.
Khéo biết phương tiện là khó.

2. Trì giới độ

Chương mười ba
Một vị Sa-môn hỏi Phật : “Bạch Thế-tôn, nhờ nhân duyên gì biết được đời trước ?”
Ðức Phật dạy : “Tâm thanh tịnh, giữ bền chí, thì tâm lãnh-hội được đạo nhiệm mầu. Ví như lau bụi mặt gương. Bụi hết mặt gương sáng tỏ hiện ra.
Người học đạo cũng vậy, nếu đoạn trừ hết ái-dục, thì sẽ biết được đời trước.”

Chương mười bốn
Một vị Sa-môn hỏi Phật : “Bạch Thế-tôn : thế nào là (thiện) hay nhất và lớn nhất (đại) ?”
Phật dạy : “Hành đạo giữ tâm chân chính là hay nhất. Chí khí cùng đạo hoà hợp là lớn nhất.”

3. Nhẫn nhục độ

Chương mười lăm
Một vị Sa-môn hỏi Phật : “Bạch Thế-tôn, cái gì mạnh nhất, cái gì sáng nhất ?”
Phật dạy : “Tu hạnh nhẫn nhục mạnh nhất, vì tâm không chứa chấp điều ác, nên thân thể được nhẹ nhàng, khỏe mạnh, và được mọi người tôn trọng. Tâm xấu diệt hết, chút bụi phiền não không còn, gọi là sáng nhất.
Vả lại, sáng nhất có nghĩa là đã được trí hiểu biết hết thảy, cho nên, vạn vật trong mười phương, kể từ khi chưa có trời, đất cho đến ngày nay, đều trông thấy, nghe thấy và hiểu biết khắp tất cả vậy.”

4. Thiền-định độ

Chương mười sáu
Phật dạy : Người ôm ấp tâm ái dục, không thể thấy được đạo, ví như nước đã lắng trong, lại cho tay quấy đục lên. Tuy mọi người đến soi mặt mình, nhưng không thể thấy bóng mình hiện trong đó nữa.
Người tu đạo cũng thế, nếu còn ham mê ái dục thì trong lòng vẫn còn vẩn đục, nên không thấy được đạo chân chính. Các ông là Sa-môn, phải gấp đoạn trừ ngay ái dục. Khi ái dục hết, đạo mới khả dĩ lĩnh ngộ được.

5. Bát-nhã độ

5.1. Trí căn-bản

Chương mười bảy
Phật dạy : Người học đạo thấy rõ đạo, cũng như người cầm đuốc vào trong nhà tối. Bóng tối hết chỉ có ánh sáng còn lại.
Người học đạo, hiểu rõ đạo tức là Vọng-tâm mê mờ hết, chỉ còn toàn ánh sáng Chân-tâm thường trụ.

5.2. Trí hậu đắc

Chương mười tám
Phật dạy : Người học đạo pháp của ta, nhớ mà không chấp nhớ mới gọi là nhớ. Làm mà không chấp làm mới gọi là làm. Nói mà không chấp nói mới gọi là nói. Tu mà không chấp tu mới gọi là tu. Người khéo lĩnh hội thì được gần đạo. Kẻ mê mờ thì cách xa đạo.
Cái đạo lớn không thể lấy lời nói để bàn luận nổi, và cũng không bị vật nào câu thúc được. Nếu có một mảy may sai lầm, thì chỉ bằng nháy mắt (tích tắc) sẽ mất hết.

5.3. Gia-hành trí

a. Quán vô thường

Chương mười chín
Phật dạy : Quán sát trời đất là vô thường, quán sát thế giớivô thường. Quán sát tâm linh giác là Bồ-đề.
Hiểu như thế thời đắc đạo rất chóng vậy.

b. Quán vô ngã như huyễn

Chương hai mươi
Phật dạy : Quán sát bốn đại trong thân nầy, mỗi cái có tên riêng, không có cái nào đáng gọi là ta cả.
Cái ta đã không có, thì thân nầy cũng là giả dối.

c. Thông quán ngũ dục

Chương hai mươi mốt
Phật dạy : Người tùy theo thế tình, tham cầu danh vọng. Khi được công danh hiển đạt, thì thân thể đã già yếu. Kẻ tham danh lợi ở đời không biết học đạo, chỉ uổng công nhọc xác.
Ví như cây hương đốt, khi được người ta ngửi thấy mùi thơm, thì thân hương đã hóa thành tro bụi, vì lửa luôn đốt cháy liền thân hương vậy.

Chương hai mươi hai
Phật dạy : Người ham mê tiền tài, sắc đẹp, tất nhiên sẽ bị tai vạ. Tài sắc ví như mật dính lưỡi dao. Mật ngon không đáng một miếng ăn, nhưng trẻ con ngây dại, tham liếm chút mật, nhất định chúng sẽ bị đứt lưỡi.

Chương hai mươi ba
Phật dạy : Người ta thường cho rằng bị giam hãm trong nhà tù là khổ. Nhưng sự khổ ấy chưa bằng nỗi khổ bằng sự ràng buộc bởi gia đình, vợ chồng, con cái. Vì người sống trong nhà tù, còn có thì giờ nhàn rỗi, và có khi được ra. Trái lại người có gia đình lúc nào cũng phải lo nghĩ về việc nhà cửa làm ăn... nên rất khổ.
Do sắc sinh tình, do tình sinh ân ái, canh cánh bên lòng. Mặc dầutai nạn phải kề bên miệng hổ, cũng phải cam tâm nhẫn chịu. Người xuống bùn thì phải lấm chân nên gọi là phàm tục. Trái lại người nào vượt ngoài vòng ái dục, gọi là bậc La-Hán xuất trần.

Chương hai mươi bốn
Phật dạy : Người đời có nhiều sự ham muốn, nhưng ham muốn nữ sắc hơn hết, do sắc đẹp sinh lòng ham mến (yêu), nên cái ham mến là hơn hết.
May thay, chỉ có một sắc đẹp, chớ có hai thì tất cả mọi người trong thiên hạ không ai tu nổi được.

Chương hai mươi lăm
Phật dạy : Người mê ái dục, cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tức nhiên sẽ bị bỏng tay.

Chương hai mươi sáu
Thiên Thần đưa Ngọc nữ (gái đẹp) đến chỗ Phật để phá hoại quả tu của Ngài. Ðức Phật nói : “Cái túi da đựng đồ dơ bẩn, lại đây làm gì ? Tránh xa đi, ta không thèm đâu”. Thiên Thần thấy Phật nói thế, liền khởi tâm kính cẩn, nhân đấy, ông liền hỏi Phật về ý đạo. Phật bèn giải đáp. Thiên Thần nghe xong, liền được chứng quả Tu-Ðà-Hoàn.

6. Tinh-tấn độ

1a. Mặc áo giáp hạnh tinh-tấn

Chương hai mươi bảy
Phật dạy : Người tu đạo, cũng như cây gỗ trên mặt nước, trôi giữa dòng sông, không chạm hai bên bờ, không bị người ta vớt lấy hoặc bị quỷ thần ngăn cản, hay nước xoáy chìm, cũng không bị mục nát. Ta bảo đảm cây gỗ ấy, chắc chắn trôi thẳng về biển.
Người học đạo cũng thế. Nếu không bị tình dục lôi cuốn, hay tà ma ám ảnh, cứ tinh tiến tu phép vô vi, ta bảo đảm người ấy quyết định đắc đạo vậy.

Chương hai mươi tám
Phật dạy : Các Phật-tử ! Phải cẩn-thận đừng nên gần gũi sắc dục. Gần nó tất nhiên sinh hoạ.
Khi đắc quả A-La Hán rồi, mới có thể tin được ý ngươi.

Chương hai mươi chín
Phật dạy : Các Phật-tử, phải cẩn-thận đừng nhìn nữ sắc, cũng chớ nên nói chuyện.
Nếu cùng họ nói chuyện, phải chính-tâm nhớ nghĩ : “Mình là Sa-môn, sống trong cõi đời vẩn đục như hoa sen trong bùn mà không nhiễm chất hôi tanh của bùn. Phải tưởng người già như mẹ (cha). Người lớn hơn như anh (chị), người kém tuổi như em, người trẻ tuổi như con.
Nên khởi chính-tâm cứu độ cho họ được giải-thoát, để dập tắt những ý-nghĩ xằng bậy.

Chương ba mươi
Phật dạy : Người hành đạo phải tránh xa ái-dục, ví như cỏ khô tránh xa lửa.

Chương ba mươi mốt
Phật dạy : Có kẻ lo sợ khi động tình dâm dục không kìm hãm nổi, muốn tự đoạn âm. Phật liền bảo rằng : “Ðoạn âm không bằng đoạn tâm”.
Tâm như ông tướng chỉ-huy. Nếu tướng đình-chỉ thì quân phải theo lịnh. Tâm cũng như vậy. Nếu tâm nghĩ xằng bậy không ngăn cấm được, thì dù đoạn-âm cũng vô ích.
Phật liền thuật lại bài kệ của Ðức Phật Ca-Diếp như sau : “Do ý ngươi sinh tư tưởng, tư tưởng sinh ái-dục. Nếu trong tâm bình tĩnh thì ngoài thân yên ổn”.

Chương ba mươi hai
Phật dạy : Người ta vì tình yêu, tình dục mà sinh buồn phiền, lo nghĩ. Từ lo nghĩ sinh sợ hãi. Nếu không yêu muốn thì không lo sợ chi cả.

1b. Mặc áo giáp tưởng-tinh-tấn

Chương ba mươi ba
Phật dạy : Người tu đạo như người chiến-sĩ đánh nhau với quân địch. Khi người ấy mặc áo giáp ra trận, hoặc hèn nhát nửa đường rút lui, hoặc giao chiến mà chết, hay đánh được khải-hoàn (về).
Sa-Môn học đạo cũng thế. Phải vững chí, tinh tiến, quả cảm, hùng dũng trước nguy hiểm. Quyết tiêu-diệt ma quân để chiếm lấy đạo-quả.

2. Tiếp-thiện tinh-tấn

Chương ba mươi bốn
Một vị Sa-môn đêm đêm tụng kinh Di-Giáo của Phật Ca-Diếp. Tụng lâu tiếng khàn đục, rồi suy nghĩ hối hận muốn thôi.
Phật bèn hỏi : “Ngày trước ông ở nhà làm nghề nghiệp gì ?” Vị ấy đáp : “Con thích đánh đàn”. Phật lại hỏi : “Cây đàn dây chùng thế nào ?” Vị ấy thưa rằng : “Tiếng nó không kêu”. Phật lại hỏi : “Dây đàn lên găng thế nào ?” Vị ấy thưa : “Tiếng gay gắt và sẽ đứt”. Phật lại hỏi : “Dây đàn vừa phải, không căng, không chùng thế nào ?” Vị ấy thưa : “Tiếng nó dịu dàng, êm ái, nghe rất vui tai.” 
Phật dạy tiếp : “Sa-môn các ông học đạo cũng như cây đàn. Phải giữ mực điều-hoà thì đạo mới thắng. Nếu hành đạo quá sức thì thân mỏi mệt, thân nếu mỏi mệt thì ý sanh phiền não, ý sanh phiền não thì thoái đạo. Thoái đạo thì tội lỗi sinh. Nếu tâm an-tịnh giữ mực trung bình, thì đạo không bao giờ mất vậy.

Chương ba mươi lăm
Phật dạy : Người thợ rèn sắt trừ hết sét rỉ, thì sắt mới trở nên đồ dùng tốt.
Người học đạo cũng thế, phải trừ hết tâm nhơ bẩn thì đạo hạnh mới trở nên trong sạch vậy.

3. Lợi lạc tinh-tấn

Chương ba mươi sáu
Phật dạy : Kẻ đã xa lìa được con đường ác, được sinh làm thân người là việc khó. Ðược sinh làm người, lại được được sinh làm đàn ông là khó. Ðược sinh làm đàn ông có sáu căn đầy đủ là khó. Ðược sáu căn đầy đủ, lại được ở giữa Trung-quốc (cõi Trung) là khó. Ðược gặp Phật ra đời là khó. Ðược gặp Phật ra đời lại được gặp đạo là khó. Ðược gặp đạo lại khởi lòng tin kính là khó. Ðã khởi lòng tin đạo lại phát tâm Bồ-đề là khó. Ðã phát tâm Bồ-đề lại tu chứng đến quả-vị không còn phải tu chứng lại là việc khó hơn hết.

V. Minh cấp giới thặng

Chương ba mươi bảy
Phật dạy : Người nào tuy cách xa ta hàng ngàn dặm, nhưng luôn luôn tuân theo giới luật của ta, tất nhiên sẽ được chứng quả. Trái lại, những người dù thân cận bên ta, hàng ngày trông thấy ta mà không chịu noi theo ta, theo những điều ta giảng dạy, thì không bao giờ được chứng đạo quả.

Chương ba mươi tám

Phật hỏi một vị sa môn : “Mệnh người ta sống độ bao lâu ?” Vị Sa-môn thưa : “Trong khoảng vài ngày.” Phật bảo : “Ông chưa biết đạo”. Phật lại hỏi vị Sa-môn khác : “Mệnh người ta sống độ bao lâu ?” Thưa rằng : “Trong khoảng bữa ăn.” Phật bảo : “Ông cũng chưa biết đạo.”
Phật lại hỏi vị Sa-môn khác nữa : “Mệnh người ta sống được bao lâu ?” Thưa rằng : “Trong khoảng giây phút (thở ra hít vào)”. Phật bảo : “Hay lắm! Hay lắm! ông hiểu đạo vậy.”

Tín giáo - Giải lý - Tu hành

I. Tín giáo

Chương ba mươi chín
Phật dạy : Người học đạo nên tin theo những điều giáo-hoá của Phật.
Kinh sách của ta, cũng như ăn mật ở bát, ở giữa hay ở chung quanh bát đều ngọt cả.

II. Giải lý

Chương bốn mươi
Phật dạy : Sa-môn hành đạo, đừng như trâu kéo mật, thân tuy thành đạo, mà tâm không hành đạo thì có ích gì ?
Nếu tâm hành đạo thì thân khỏi phải hành đạo.

III. Tu hành

Chương bốn mươi mốt
Phật dạy : Người hành đạo như trâu chở nặng, đi vào bùn lầy, tuy mỏi mệt, nhưng không dám quay trở lại, trông sang bên phải, bên trái. Chỉ khi nào ra khỏi đám bùn ấy, mới được nghỉ ngơi.
Sa-môn cũng vậy, phải đề phòng tình dục tệ hại hơn bùn lầy. Phải nhất tâm suy nghĩ về đạo, mới có thể thoát khỏi khổ não.

Phần kết luận

Chương bốn mươi hai
Phật dạy : Ta coi ngôi vua, quan như bụi qua kẽ hở, coi vàng ngọc như ngói sỏi, coi nhung lụa gấm vóc như vải thô, coi đại-thiên giới như hạt cải, coi nước.

Đọc thêm:
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Thích Viên Giác Dịch và Giảng
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, Thích Phước Tịnh Dịch và Giảng
Kinh Phật Nói Bốn Mươi Hai Chương, HT. Tuyên Hóa
Kinh Bốn Mươi Hai Chương, HT. Thích Tâm Châu

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49714)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34612)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33431)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43903)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57028)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47539)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39413)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38455)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52912)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36587)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32229)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40436)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43463)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31438)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46693)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36166)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28682)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29212)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31867)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28795)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33344)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29112)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60967)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39719)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26643)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29639)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37342)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40071)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26824)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42629)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28274)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28884)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26388)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27155)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26176)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27793)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30453)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33261)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28546)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30057)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25475)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21834)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26708)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28601)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27687)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24340)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27449)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31911)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30172)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27680)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35412)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27429)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29994)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31750)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22997)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24168)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23008)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant