KINH BỐN MƯƠI HAI BÀI
HT. Thích Trí
Quang dịch
Dẫn nhập
Tài Liệu và
Ký Hiệu
Những tài liệu với
ký hiệu sau đây được dùng để viết lời dẫn nhập này.
Đại tạng kinh bản
Đại chính, các tập 17, 55, 98 và 99, ký hiệu là Chính 17 ... Tục tạng kinh bản
chữ Vạn tập 59, ký hiệu là Vạn 59. Thái hư toàn thư tập 6. Kinh ày, kinh
Tứ
thập nhị chương (kinh 42 bài), viết tắt là kinh 42 bài. Kinh này mà bản A, ký
hiệu là A/1 (bản A bài 1); bản B, ký hiệu là B/1 (bản B bài 1). Phật học
nghiên
cứu, bài 2, trang 3-7.
Văn Bản Kinh 42
Bài
Văn bản ấy không
duy nhất, chứng tỏ có sự sửa chữa thấy rất rõ. Ít nhất, trong khi tôi viết bài
này, kinh 42 bài có các bản chính văn sau đây.
1. Bản A,
nằm trong Chính 17/722-724. Bản này tương đối xưa nhất. Tôi chắc không có vào
thời Hậu Hán thì cũng có vào thời Tam quốc. Chữ và văn đều xưa, nhưng nguyên
chất thấy rõ. Chỉ có bài 10 không có điều gặp thiện tri thức, 1 yếu tố quan
trọng; bài 27 không có câu chót "sinh tâm độ thoát", 1 câu rất quan
trọng; bài 42 không có 2 điều không đáng không có, đó là "coi cái trò phải
trái như 6 con rồng cùng múa" và "coi sự sinh diệt của tất cả các
pháp như cái cây trải qua 4 mùa"; bài 40 ví dụ hơi lạ. Ngoài ra, tất cả
đều hoàn chỉnh. Duy văn tự của bản A thì quả là xưa: chữ rác khá nhiều, văn
cũng vậy. Nhưng chính điều này chứng tỏ chính văn nguyên thỉ của kinh 42
bài là
bản A này.
2. Bản B là
bản thông hành hiện nay. Bản này cũng không phải có sau hết. Nhưng sớm nhất
cũng phải có vào đầu Tống, vì văn tự ngữ khí thuần túy là văn phong lý học của
thời ấy. Bản này chữa bản A mà thành, điều ấy quá rõ rệt. Nhưng chữa theo ý
riêng nhiều quá. Trước hết, có 2 chỗ chữa, có thể nói quá sai, đó là A/9
chữa
thành B/11, và A/15 chữa thành B/18. Thêm thì nhiều nhất là B/12 và B/42, chưa
kể có bài bớt trọn, có bài thêm trọn, coi bảng đối chiếu sau đây sẽ thấy. Đặc
biệt có bài bớt không nên bớt, đó là A/36 thành B/36; có bài chữa không nên
chữa, đó là A/7 thành B/9. Bây giờ hãy nói văn khí. Rõ ràng người chữa thành
bản B rất sính dùng ngữ khí Thiền tông (mà cũng chỉ từ Tống về sau). Cứ đọc các
bài 2, 11, 12, 18, 36 và 42 thì thấy. Nói thí dụ, trong bài B/11, có chữ
kiến
tánh học đạo, chữ này hoàn toàn là của Thiền tông, không làm gì có trước
Đường,
làm gì có trước nữa. Sự sính dùng ngữ khí Thiền tông, sính đến nỗi chỗ nào xổ
ra được là xổ ra, bất kể đúng sai, lợi hại. Cứ đọc câu nói láy "tâm đạo
nhược hành, hà dụng hành đạo" (B/40) cũng đủ thấy. Ngữ khí Thiền tông hay
cầu kỳ, phóng túng, hồn hàm, thêm nữa là văn phong lý học thời Tống, thì
bản B được
thông hành và ưa chuộng, cũng không lạ.
3. Ngoài 2 bản
trên, có thể tìm thấy vài bản nữa. Thứ nhất là chính văn của hoàng đế Chân tông
của đời Tống đã chú thích (Vạn 59/25-33). Chính văn này hỗn hợp cả 2 bản
A và B
mà thành, cũng bỏ chỗ không nên bỏ, thêm cái không đáng thêm, chữa điều không
nên chữa. Thậm chí đầu và cuối kinh còn thêm "Lúc ấy đức Thế tôn nói cho
bản kinh chân thật gồm có 42 bài", "Chư vị đại tỷ kheo nghe những điều
Phật tuyên thuyết, ai cũng hoan hỷ phụng hành". Thứ hai, chính văn của
Quán đảnh hành giả Tục pháp (Vạn 59/49-52), lời tựa nói "ngẫu nhiên được
một phường bản tốt", nhưng nội dung chỉ lấy câu chót của A/9 làm thành bài
12, còn lại toàn là lấy bản B, nhưng cũng có câu đầu và câu cuối như bản
thứ
nhất. Ngoài 2 bản này, có vài bản theo bản thứ hai, còn tất cả đều là bản B.
Điều kỳ lạ, là trong tất cả lời mở đầu, dầu bằng dạng nào, cũng không thấy ai
nói đến bản A.
Đến đây đã có thể
tổng kết được. Rằng kinh 42 bài thực sự chỉ 2 bản A và B là đáng nói. Bản A có
thể nói là nguyên hữu, bản B rõ ràng là sửa chữa bản A. Vì sự nguyên hữu
mà bản
A tôi trọng hơn cả - mặc dầu tôi vẫn dịch bản B để tiện đối chiếu, tham khảo.
Sau hết, vì bản A chữ rác hơi nhiều, văn lại có thể làm gọn, nên tôi dịch bản A
rồi, lại làm một bản trùng trị, chữa lại chính văn bản A, rồi dịch và lược
giải. Thâm ý chỉ để đánh bóng bản A mà thôi.
Lai Lịch Kinh
42 Bài
Tôi để mục này
riêng ra, và nói ở đây, là để dễ thấy. Theo sách Phật học nghiên cứu của
Lương
Khải Siêu (bài 2, trang 3-7), thì kinh 42 bài không thể nói là dịch phẩm
của thời
Hậu Hán, mà nên nói là thời Tam quốc, lưỡng Tấn, và dịch giả có thể là Chi Mẫn
Độ, cũng có thể là Chi Khiêm. Nhưng điều bất cẩn và sai lầm lớn lao của Lương Khải
Siêu là chỉ nói bản B mà không đọc đến bản A, dầu bản này mới là của Đại
tạng.
Nói bản B thì nên nói sớm lắm là trước thời Tống, nói thời Tam quốc và lưỡng
Tấn thì sớm quá. Ấy là chỉ căn cứ văn tự mà đã thấy nên nói như vậy.
Chính 98/660 và
678 (Mục lục trước dịch của Đại tạng kinh bản Đại chính), nói các ngài Ma đằng
và Pháp lan, người Trung Ấn, năm 67, thời Hậu Hán, đến Lạc dương, cùng nhau
dịch kinh 42 bài.
Chính 55/5 (Xuất
tam tạng ký tập, của ngài Tăng hộ, một vị bác học), điều Tứ thập nhị chương
kinh, ghi "kinh 42 bài thời Hiếu minh hoàng đế thiếu trong kinh lục của
ngài Đạo an".
Chính 49/49 (Lịch
đại tam bảo ký, của Phí Trường Phòng, học sĩ dịch kinh) ghi "kinh 42 bài
là kinh đầu tiên ở Trung hoa. Cựu lục nói kinh ấy vốn là kinh sao chép của nước
ngoài (Ấn độ), sao chép từ các bộ kinh lớn mà toát yếu để hướng dẫn quần
chúng,
tựa như Hiếu kinh có 18 bài".
Xuất xứ nói trên
mà ở trang khác, nơi điều Chi Khiêm, ghi "kinh Tứ thập nhị chương này dịch
ra lần thứ 2, hơi khác với bản dịch (thứ 1) của ngài Ma đằng, văn nghĩa chín
chắn, câu lời trang nhã. Thấy trong mục lục riêng" (Chính 49/57-58).
Căn cứ những tài
liệu trên đây thì có đến 2 bản dịch về kinh 42 bài. Người ta có thể dễ dàng nói
đó là bản A và bản B, 1 của ngài Ma đằng, 1 của ngài Chi Khiêm. Nhưng tôi quả
quyết không "hơi khác"gì cả, mà bản B là chữa bản A, và không có
trước thời Tống. Không thiếu chữ trong bản B, dầu chữa bản A mà không cần dè
dặt, nên đạo có chỗ đã thành pháp, đệ tử đã ra Phật tử ... Có chỗ chữa mà là
viết, không thể nào nói là văn dịch. Kết luận của tôi là nếu có 2 bản kinh 42
bài thì, từ lâu, chỉ còn 1 bản, và bản ấy là bản A. Còn bản B đích là chữa bản
này mà thành.
Nội Dung Kinh 42
Bài
Về nội dung hình
thức, dưới đây là bản đối chiếu 42 bài của bản A và bản B.
Bản A
Bản B
không
có tiểu dẫn
1 1
không có 2
2 3
3 4
4 5
5 6 và 7
6 8
7 9
8 10
9 11
10 12
11 13
12 14 và 15
13 16
14 17
15 18
16 19
17 không có
18 20
19 21
20 22
21 23
22 24
23 25
24 26
25 27
26 28
27 29
28 30
29 và
30 31
31 32
32 33
33 34
34 35
35 không có
36 36
37 38
38 37
39 39
40 không có
không
có 40
41 41
42 42
Đáng lẽ là tôi nên
làm cái dấu gì đó để cho thấy bài nào bản B đã chữa nhiều hay chữa ít. Nhưng
người đọc sẽ tra thấy không khó, nên thôi. Về nội dung ý nghĩa, tuy 42 bài là
trích yếu hoặc trích diễm, nhưng rõ ràng trích với ý nghĩa được đặt định, nên
rất nhất quán. Ý nghĩa ấy là tu hành tứ đế.
Ngay trong bản A, ít
ra là các bài 9, 12, 13, 14, 27, 36, đều có chữ và nghĩa của đại thừa. Nhưng
toàn là do cái thế của ý nghĩa nên nói thấu đại thừa mà thôi. Thêm nữa, người làm
việc trích yếu và trích diễm rõ ràng không phải là học giả chỉ thừa nhận
tiểu
thừa. Dầu vậy, tu hành tứ đế vẫn là xương cốt máu thịt của kinh 42 bài. Bản B
chữa và thêm rất đại thừa thật đấy, nhưng là vụn vặt, thừa cái thế văn ý
mà nói
theo ngữ khí Thiền tông, không thể chứng tỏ kinh 42 bài, qua bản B, là đại
thừa. Bản B chỉ làm cái việc điểm bông hoa đại thừa rực rỡ trên cái áo tiểu
thừa khá mộc mạc.
Ý nghĩa tu hành tứ
đế của kinh 42 bài như thế nào?
a. Về mục đích
(bài A/1) là A la hán, là ái tận niết bàn: là diệt đế.
b. Về đối tượng
(hầu hết 42 bài) là ái dục, là kiến hoặc tu hoặc: là tập đế.
c. Về phương pháp
(cũng hầu hết 42 bài) là đạo đế.
Chủ yếu trong mục
C, rất dễ dàng thấy 42 bài dạy làm theo 8 chánh đạo, nhắm vào ái dục. Ái
dục,
nói xác là tình ái và tình dục, nói rộng là ưa thích và ham muốn. Tuy nhấn mạnh
đến sắc dục, kinh này vẫn nói đủ cả 5 dục: tài (tiền tài) sắc (sắc dục) danh
(hoa danh) thực (thực dục) thụy (ngủ nghỉ). Chữ đạo mà kinh này nói, tuy
nhiều
mà rất rõ: đa số chỉ cho diệt đế, thiểu số chỉ cho đạo đế; không thể (và
rất
không nên) cố chỉ ép cho chân như.
Nội dung như vậy
thật đơn giản. Và do vậy mà rất quí báu, cho cấp độ tu học sơ cơ. Cũng cần phải
nói, tuy 42 bài có thể nói là những lời huấn dụ cho bất cứ ai, nhưng rõ ràng
trước hết, và chủ yếu, là nói cho người xuất gia.
Mặt khác, nội dung
kinh 42 bài còn có 3 điều nữa mà không kinh luận nào nói đơn giản và quan trọng
bằng. Đó là một, đề cao sự hiếu với cha mẹ (bài 9 bản A), hai, đề cao hành vi
(Nghiệp), và ba, đề cao ngũ giới (bài 3 của bản A). Ba điều này nói thật
chính
xác và rất rõ về cái mà sau này gọi là Phật giáo nhân thừa.
Một hôm tôi đột
nhiên nghĩ nhiều đến kinh 42 bài. Mối nghi ngờ bản B có từ lâu lại khơi dậy.
Tôi mới tra Đại tạng kinh bản Đại chính mà coi, vì biết ở đó có ghi chú cần
thiết. Quả nhiên tìm thấy chính văn bản A. Cảm vì sự chất phác của chính
văn
ấy, vì tư tưởng thiết cận và nhất quán của kinh này, nhất là cảm vì câu nói
chót của bài A/9 mà tôi đọc được gần ngày Vu lan, nên tôi làm việc liền cho kinh
42 bài, hiến dâng chút phước này lên đức Địa tạng đại sĩ, cầu nguyện và hồi
hướng cho hiện thế và đa sinh phụ mẫu, cho sư trưởng thiện hữu, cho pháp
giới
hữu tình.
Địa tạng đại sĩ thánh đản,
2 9 . 7 . 2 5 3 7
Trí Quang