Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

I. Dẫn Nhập

28 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8862)
I. Dẫn Nhập

KINH BỐN MƯƠI HAI BÀI
HT. Thích Trí Quang dịch

Dẫn nhập

Tài Liệu và Ký Hiệu
Những tài liệu với ký hiệu sau đây được dùng để viết lời dẫn nhập này. 
Đại tạng kinh bản Đại chính, các tập 17, 55, 98 và 99, ký hiệu là Chính 17 ... Tục tạng kinh bản chữ Vạn tập 59, ký hiệu là Vạn 59. Thái hư toàn thư tập 6. Kinh ày, kinh Tứ thập nhị chương (kinh 42 bài), viết tắt là kinh 42 bài. Kinh này mà bản A, ký hiệu là A/1 (bản A bài 1); bản B, ký hiệu là B/1 (bản B bài 1). Phật học nghiên cứu, bài 2, trang 3-7. 

Văn Bản Kinh 42 Bài
 
Văn bản ấy không duy nhất, chứng tỏ có sự sửa chữa thấy rất rõ. Ít nhất, trong khi tôi viết bài này, kinh 42 bài có các bản chính văn sau đây. 

1. Bản A, nằm trong Chính 17/722-724. Bản này tương đối xưa nhất. Tôi chắc không có vào thời Hậu Hán thì cũng có vào thời Tam quốc. Chữ và văn đều xưa, nhưng nguyên chất thấy rõ. Chỉ có bài 10 không có điều gặp thiện tri thức, 1 yếu tố quan trọng; bài 27 không có câu chót "sinh tâm độ thoát", 1 câu rất quan trọng; bài 42 không có 2 điều không đáng không có, đó là "coi cái trò phải trái như 6 con rồng cùng múa" và "coi sự sinh diệt của tất cả các pháp như cái cây trải qua 4 mùa"; bài 40 ví dụ hơi lạ. Ngoài ra, tất cả đều hoàn chỉnh. Duy văn tự của bản A thì quả là xưa: chữ rác khá nhiều, văn cũng vậy. Nhưng chính điều này chứng tỏ chính văn nguyên thỉ của kinh 42 bài là bản A này. 

2. Bản B là bản thông hành hiện nay. Bản này cũng không phải có sau hết. Nhưng sớm nhất cũng phải có vào đầu Tống, vì văn tự ngữ khí thuần túy là văn phong lý học của thời ấy. Bản này chữa bản A mà thành, điều ấy quá rõ rệt. Nhưng chữa theo ý riêng nhiều quá. Trước hết, có 2 chỗ chữa, có thể nói quá sai, đó là A/9 chữa thành B/11, và A/15 chữa thành B/18. Thêm thì nhiều nhất là B/12 và B/42, chưa kể có bài bớt trọn, có bài thêm trọn, coi bảng đối chiếu sau đây sẽ thấy. Đặc biệt có bài bớt không nên bớt, đó là A/36 thành B/36; có bài chữa không nên chữa, đó là A/7 thành B/9. Bây giờ hãy nói văn khí. Rõ ràng người chữa thành bản B rất sính dùng ngữ khí Thiền tông (mà cũng chỉ từ Tống về sau). Cứ đọc các bài 2, 11, 12, 18, 36 và 42 thì thấy. Nói thí dụ, trong bài B/11, có chữ kiến tánh học đạo, chữ này hoàn toàn là của Thiền tông, không làm gì có trước Đường, làm gì có trước nữa. Sự sính dùng ngữ khí Thiền tông, sính đến nỗi chỗ nào xổ ra được là xổ ra, bất kể đúng sai, lợi hại. Cứ đọc câu nói láy "tâm đạo nhược hành, hà dụng hành đạo" (B/40) cũng đủ thấy. Ngữ khí Thiền tông hay cầu kỳ, phóng túng, hồn hàm, thêm nữa là văn phong lý học thời Tống, thì bản B được thông hànhưa chuộng, cũng không lạ. 

3. Ngoài 2 bản trên, có thể tìm thấy vài bản nữa. Thứ nhất là chính văn của hoàng đế Chân tông của đời Tống đã chú thích (Vạn 59/25-33). Chính văn này hỗn hợp cả 2 bản A và B mà thành, cũng bỏ chỗ không nên bỏ, thêm cái không đáng thêm, chữa điều không nên chữa. Thậm chí đầu và cuối kinh còn thêm "Lúc ấy đức Thế tôn nói cho bản kinh chân thật gồm có 42 bài", "Chư vị đại tỷ kheo nghe những điều Phật tuyên thuyết, ai cũng hoan hỷ phụng hành". Thứ hai, chính văn của Quán đảnh hành giả Tục pháp (Vạn 59/49-52), lời tựa nói "ngẫu nhiên được một phường bản tốt", nhưng nội dung chỉ lấy câu chót của A/9 làm thành bài 12, còn lại toàn là lấy bản B, nhưng cũng có câu đầu và câu cuối như bản thứ nhất. Ngoài 2 bản này, có vài bản theo bản thứ hai, còn tất cả đều là bản B. Điều kỳ lạ, là trong tất cả lời mở đầu, dầu bằng dạng nào, cũng không thấy ai nói đến bản A. 

Đến đây đã có thể tổng kết được. Rằng kinh 42 bài thực sự chỉ 2 bản A và B là đáng nói. Bản A có thể nói là nguyên hữu, bản B rõ ràngsửa chữa bản A. Vì sự nguyên hữu mà bản A tôi trọng hơn cả - mặc dầu tôi vẫn dịch bản B để tiện đối chiếu, tham khảo. Sau hết, vì bản A chữ rác hơi nhiều, văn lại có thể làm gọn, nên tôi dịch bản A rồi, lại làm một bản trùng trị, chữa lại chính văn bản A, rồi dịch và lược giải. Thâm ý chỉ để đánh bóng bản A mà thôi. 

Lai Lịch Kinh 42 Bài 

Tôi để mục này riêng ra, và nói ở đây, là để dễ thấy. Theo sách Phật học nghiên cứu của Lương Khải Siêu (bài 2, trang 3-7), thì kinh 42 bài không thể nói là dịch phẩm của thời Hậu Hán, mà nên nói là thời Tam quốc, lưỡng Tấn, và dịch giả có thể là Chi Mẫn Độ, cũng có thể là Chi Khiêm. Nhưng điều bất cẩn và sai lầm lớn lao của Lương Khải Siêu là chỉ nói bản B mà không đọc đến bản A, dầu bản này mới là của Đại tạng. Nói bản B thì nên nói sớm lắm là trước thời Tống, nói thời Tam quốc và lưỡng Tấn thì sớm quá. Ấy là chỉ căn cứ văn tự mà đã thấy nên nói như vậy. 

Chính 98/660 và 678 (Mục lục trước dịch của Đại tạng kinh bản Đại chính), nói các ngài Ma đằng và Pháp lan, người Trung Ấn, năm 67, thời Hậu Hán, đến Lạc dương, cùng nhau dịch kinh 42 bài. 

Chính 55/5 (Xuất tam tạng ký tập, của ngài Tăng hộ, một vị bác học), điều Tứ thập nhị chương kinh, ghi "kinh 42 bài thời Hiếu minh hoàng đế thiếu trong kinh lục của ngài Đạo an". 

Chính 49/49 (Lịch đại tam bảo ký, của Phí Trường Phòng, học sĩ dịch kinh) ghi "kinh 42 bài là kinh đầu tiên ở Trung hoa. Cựu lục nói kinh ấy vốn là kinh sao chép của nước ngoài (Ấn độ), sao chép từ các bộ kinh lớn mà toát yếu để hướng dẫn quần chúng, tựa như Hiếu kinh có 18 bài". 

Xuất xứ nói trên mà ở trang khác, nơi điều Chi Khiêm, ghi "kinh Tứ thập nhị chương này dịch ra lần thứ 2, hơi khác với bản dịch (thứ 1) của ngài Ma đằng, văn nghĩa chín chắn, câu lời trang nhã. Thấy trong mục lục riêng" (Chính 49/57-58). 

Căn cứ những tài liệu trên đây thì có đến 2 bản dịch về kinh 42 bài. Người ta có thể dễ dàng nói đó là bản A và bản B, 1 của ngài Ma đằng, 1 của ngài Chi Khiêm. Nhưng tôi quả quyết không "hơi khác"gì cả, mà bản B là chữa bản A, và không có trước thời Tống. Không thiếu chữ trong bản B, dầu chữa bản A mà không cần dè dặt, nên đạo có chỗ đã thành pháp, đệ tử đã ra Phật tử ... Có chỗ chữa mà là viết, không thể nào nói là văn dịch. Kết luận của tôi là nếu có 2 bản kinh 42 bài thì, từ lâu, chỉ còn 1 bản, và bản ấy là bản A. Còn bản B đích là chữa bản này mà thành. 

Nội Dung Kinh 42 Bài 
Về nội dung hình thức, dưới đây là bản đối chiếu 42 bài của bản A và bản B. 
Bản A 
 Bản B 

không có tiểu dẫn 
1 1 
không có 2 
2 3 
3 4 
4 5 
5 6 và 7 
6 8 
7 9 
8 10 
9 11 
10 12 
11 13 
12 14 và 15 
13 16 
14 17 
15 18 
16 19 
17 không có 
18 20 
19 21 
20 22 
21 23 
22 24 
23 25 
24 26 
25 27 
26 28 
27 29 
28 30 
29 và 30 31 
31 32 
32 33 
33 34 
34 35 
35 không có 
36 36 
37 38 
38 37 
39 39 
40 không có 
không có 40 
41 41 
42 42 

 
Đáng lẽ là tôi nên làm cái dấu gì đó để cho thấy bài nào bản B đã chữa nhiều hay chữa ít. Nhưng người đọc sẽ tra thấy không khó, nên thôi. Về nội dung ý nghĩa, tuy 42 bài là trích yếu hoặc trích diễm, nhưng rõ ràng trích với ý nghĩa được đặt định, nên rất nhất quán. Ý nghĩa ấy là tu hành tứ đế

Ngay trong bản A, ít ra là các bài 9, 12, 13, 14, 27, 36, đều có chữ và nghĩa của đại thừa. Nhưng toàn là do cái thế của ý nghĩa nên nói thấu đại thừa mà thôi. Thêm nữa, người làm việc trích yếu và trích diễm rõ ràng không phải là học giả chỉ thừa nhận tiểu thừa. Dầu vậy, tu hành tứ đế vẫn là xương cốt máu thịt của kinh 42 bài. Bản B chữa và thêm rất đại thừa thật đấy, nhưng là vụn vặt, thừa cái thế văn ý mà nói theo ngữ khí Thiền tông, không thể chứng tỏ kinh 42 bài, qua bản B, là đại thừa. Bản B chỉ làm cái việc điểm bông hoa đại thừa rực rỡ trên cái áo tiểu thừa khá mộc mạc. 

Ý nghĩa tu hành tứ đế của kinh 42 bài như thế nào? 
a. Về mục đích (bài A/1) là A la hán, là ái tận niết bàn: là diệt đế
b. Về đối tượng (hầu hết 42 bài) là ái dục, là kiến hoặc tu hoặc: là tập đế
c. Về phương pháp (cũng hầu hết 42 bài) là đạo đế

Chủ yếu trong mục C, rất dễ dàng thấy 42 bài dạy làm theo 8 chánh đạo, nhắm vào ái dục. Ái dục, nói xác là tình áitình dục, nói rộng là ưa thíchham muốn. Tuy nhấn mạnh đến sắc dục, kinh này vẫn nói đủ cả 5 dục: tài (tiền tài) sắc (sắc dục) danh (hoa danh) thực (thực dục) thụy (ngủ nghỉ). Chữ đạo mà kinh này nói, tuy nhiều mà rất rõ: đa số chỉ cho diệt đế, thiểu số chỉ cho đạo đế; không thể (và rất không nên) cố chỉ ép cho chân như

Nội dung như vậy thật đơn giản. Và do vậy mà rất quí báu, cho cấp độ tu học sơ cơ. Cũng cần phải nói, tuy 42 bài có thể nói là những lời huấn dụ cho bất cứ ai, nhưng rõ ràng trước hết, và chủ yếu, là nói cho người xuất gia

Mặt khác, nội dung kinh 42 bài còn có 3 điều nữa mà không kinh luận nào nói đơn giản và quan trọng bằng. Đó là một, đề cao sự hiếu với cha mẹ (bài 9 bản A), hai, đề cao hành vi (Nghiệp), và ba, đề cao ngũ giới (bài 3 của bản A). Ba điều này nói thật chính xác và rất rõ về cái mà sau này gọi là Phật giáo nhân thừa

Một hôm tôi đột nhiên nghĩ nhiều đến kinh 42 bài. Mối nghi ngờ bản B có từ lâu lại khơi dậy. Tôi mới tra Đại tạng kinh bản Đại chính mà coi, vì biết ở đó có ghi chú cần thiết. Quả nhiên tìm thấy chính văn bản A. Cảm vì sự chất phác của chính văn ấy, vì tư tưởng thiết cận và nhất quán của kinh này, nhất là cảm vì câu nói chót của bài A/9 mà tôi đọc được gần ngày Vu lan, nên tôi làm việc liền cho kinh 42 bài, hiến dâng chút phước này lên đức Địa tạng đại sĩ, cầu nguyệnhồi hướng cho hiện thếđa sinh phụ mẫu, cho sư trưởng thiện hữu, cho pháp giới hữu tình

Địa tạng đại sĩ thánh đản

2 9 . 7 . 2 5 3 7 

Trí Quang 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31334)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26225)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27520)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27910)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26711)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31232)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20263)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22924)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30052)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21574)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20243)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22665)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20752)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30314)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28792)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34726)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44226)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35514)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22543)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20687)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24759)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37921)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19043)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19330)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21820)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20871)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29522)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35130)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28817)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32602)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26223)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43151)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34966)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43931)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37901)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21331)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49014)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39839)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53781)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36826)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49739)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47310)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27698)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27027)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24071)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20848)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34319)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22466)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25121)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25847)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22953)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22473)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21762)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23321)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant