Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Tìm Hiểu Phẩm 6: Phân biệt Tánh hạnh

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8000)
Phần Tìm Hiểu Phẩm 6: Phân biệt Tánh hạnh

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Phần 2: PHẦN TÌM HIỂU

Phần Tìm Hiểu Phẩm 6: Phân biệt Tánh hạnh


Chuyển tiếp: Trong các Phẩm trước, Luận văn bàn đến sự chuẩn bị của người tu học về Giới, về Định, về cách tìm gặp bực Thiện tri thức để theo học. Trong Phẩm 6 nầy, Luận văn chú trọng đến bổn phận của vị Thầy phải biết rõ tánh hạnh của đệ tử mà lựa cách chỉ dạy sao cho phù hợp.

032. Ý chánh Phẩm 6: Phân biệt Tánh hạnh.

Vị Thầy có biết rõ tánh hạnh của người đệ tử, thì việc giáo hoá mới chóng có hiệu quả. Vì sao? Vì biết chỗ sở đoản của đệ tử thì chỉ dạy nhiều để sửa đỗi lại chỗ còn kém, vì biết được chỗ sở trường của đệ tử thì chỉ cần nói sơ qua cũng đủ cho trò biết mà làm tăng trưởng thêm chỗ đã khéo sẵn.

Phẩm 6 có mục đích là khảo sát tánh hạnh của người học trò, để dễ bề giáo hoá. Đó là ý chánh của Phẩm nầy.

Nội dung của Phẩm nói về nhiều loại tánh hạnh, mới đọc qua thấy rối rắm; nhưng sau cùng, các loại tánh hạnh được Luận văn qui về ba loại chánh dựa trên ba phiền não: tham, sân và si, nhờ đó mà ta dễ xét tánh người qua các hành động.

Phần khá hứng thú của Phẩm 6 là chỉ các cách dò xét tánh hạnh của người đệ tử, qua lối ăn mặc, đi đứng, nằm ngồi, quét sân, v.v. cho thấy hành động và cử chỉ của người tham lam, người hay giận, người còn ngu si khác nhau rất rõ rệt.

032. Dàn bài của Phẩm 6: Phân biệt Tánh hạnh

I. Nhập đề: Quan sát tánh hạnh của người đệ tử, rồi sau mới định đường lối giáo hoá.

II. Thân bài:

A) Các loại tánh hạnh:

1. Mười bốn loại tánh hạnh
2. Mười bốn hạng người.

B) Các tánh hạnh qui về bảy loại:

1. Bảy loại tánh hạnh.
2. Do
đâu người tánh ham và người tánh hay tin tưởng cùng chung một hạng.
3. Do
đâu người hay giận với người có ý trí cùng chung một hạng.
4. Do
đâu người tánh ngu và người tánh hiểu biết cùng chung một hạng.

C) Tại sao có tu hành mau và tu hành chậm?

D) Tánh hạnh do nhân duyên nào mà có?

E) Quan sát hành động để biết tánh hạnh: (1) cách nhìn vật; (2) cách đi; (3) cách mặc áo; (4) cách ăn; (5) cách quét sân; (6) cách nằm.

F) Lời khuyên về cách mặc áo, cách ăn, cách nằm, và về trú xứ, cho các tu sĩ xuất gia.

G) Linh tinh.

III. Kết luận: Luận văn chẳng có phần kết luận tại Phẩm 6 nầy.

033. Tìm hiểu nghiã các chữ khó:

Tánh hạnh = tánh tình; nguyên văn trong bộ Luận chỉ ghi là hạnh, khi xét đến tánh tình, e hiểu lầm với giới hạnh.

A-xà-lê: xem lại nghiã ở Phẩm 3: Đầu-đà, trang 358.

Tánh ý trí: Nguyên văn trong bộ Luận là ý hạnh, tôi thêm chữ trí vào, để chỉ hạng người mà trí có nhiều ý kiến.

Tánh hiểu biết: Nguyên văn trong bộ Luận đề là giác hạnh, e có sự hiểu lầm với sự giác ngộ, tôi mạn phép dịch là tánh hiểu biết.

Tánh hạnh đồng phần: Nguyên văn là đẳng phần hạnh, có nghiã là nơi hạng người nầy có cả ba phiền não tham, sân si, đồng đều nhau, nghiã là vừa tham lại hay giận và vì thế mà thành ra cũng ngu.

Ái kiến: Ái = thương; ở đây chữ ái có nghiã chẳng tốt là quá thích, mê thích. Ái kiến là một tà kiến, cần diệt bỏ như thường kiến, đoạn kiếnthân kiến. Đừng lầm với bác ái.

Tương ưng, tương ứng: Tương = gần nhau; Ưng hay Ứng tùy theo đó mà khởi lên. Tương ứng là có liên hệ chặt chẽ với, ăn khớp với, phù hợp với, v.v.

Ham muốn: Nguyên văn trong bộ Luận là Dục, nghiã là muốn. Muốn thì có thể là muốn điều tốt, hay muốn điều xấu; do đó chữ dục chưa hẳn là có nghiã xấu. Nhưng khi đi kèm với các chữ khác như ái dục, tham dục, dục vọng, nghiã chữ dục trở thành xấu đi.

Khả ái: Khả = có thể; ái = yêu, thích. Điều khả ái điều đáng thích. Trái với khả ái khả ố, đáng ghét.

Công đức: đây, chữ công đức có nghiã là những ích lợi. Thường chữ công đức được dùng để chỉ những hành vi có tánh cách đạo đức, đem lại phước báu cho hành giả. Gần nghiã với chữ công đức có chữ phước đức. Tuy nhiên về mặt chuyên môn, Phật học phân biệt giữa hai chữ công đứcphước đức. Công đức thì mang đến phước báu vô lậu, còn phước đức mang lại phước báu hữu lậu. Khác nhau giữa phước hữu lậu vô lậu là ở chỗ, hữu lậu thì còn phiền não, phước nầy có hạn lượng, hưởng riết rồi sẽ hết; còn phước vô lậu chẳng còn phiền não, lại vô hạn, vô lượng nữa. Thí dụ: bố thí thông thường mang đến phước hữu lậu, như sẽ được giàu sang, sung sướng về sau, hay ở kiếp sau; còn bố thí ba-la-mật mang lại phước vô lậu như được giải thoát, chẳng còn phải tái sanh trong vòng Luân hồi nữa.

Ổn cố: Ổn = yên, an ổn; Cố = vững chắc. Ổn cố có nghiã là bền vững, chẳng lung lay.

Qui hướng: Qui = quay về; Hướng = chiều hướng. Chẳng có nơi qui hướng, ý muốn nói chẳng có chỗ để trụ lại, chẳng có điểm để quay về, cứ chạy đi mãi.

Khinh an: Khinh = nhẹ; An = yên. Khinh an = vừa nhẹ vừa yên; ở đây có nghiã là dễ dàng, mềm dẻo.

Tín lực: Tín = tin tưởng; Lực = sức mạnh. Tín lực sức mạnh của niềm tin.

Cõi Thiên đường = cõi Trời.

Ly gián: Ly = lià xa, làm cho chia lià nhau ra; Gián = ngăn cách. Ly gián là khiến cho lià xa.

Ưu điểm: Ưu = tốt hơn, thắng hơn. Ưu điểm điểm thắng hơn, điểm tốt đẹp.

Sở trường: Sở = chỗ, nơi; Trường = dài. Sở trường là những ưu điểm của một người, chỗ hay khéo.

Trái với sở trường sở đoản, tức là các khuyết điểm, chỗ kém. (đoản = ngắn).

Huyễn hoặc = chuyện chẳng có thật, mơ hồ, vu vơ chẳng đúng với Sự thật.

Tròn thẳng: Nguyên văn trong bộ Luận là chu chính = tròn thẳng; viên = tròn. Vì mặc áo cà-sa rộng, nên trông như tròn;vì áo chẳng nhăn nheo, nên thẳng [Phiên dịch hơi gượng].

Trú xứ: Trú = nơi ăn chốn ở; Xứ = nơi, chốn. Trú xứ là nơi trú ngụ, chỗ ăn ở.

Nô lệ = kẻ đày tớ làm tôi đòi suốt đời cho chủ, chẳng có được tự do cá nhơn.

Sắc dục: Sắc = hình sắc; Dục ham muốn. Ráp hai chữ lại, sắc dục thường chỉ sự ham muốn về sắc đẹp phụ nữ.

Đoạn trừ: Đoạn = cắt đứt; Trừ = bỏ đi. Đoạn trừ là trừ bỏ đi, chẳng giữ lại nữa.

034. Tìm hiểu về nội dung của Phẩm 6.

1) Mục đích của Phẩm 6.

Phẩm 6 vừa mở đầu đã kể tới mười bốn loại tánh hạnh, khiến người đọc thấy quá rối rắm. Nhưng mục đích của Phẩm nầy là tìm hiểu về tánh tình người đệ tử, xem chỗ nào còn khuyết điểm nhiều mà dạy cách tu sửa lại, nên chẳng cần biết đủ cả 14 loại. Vả lại sự phân biệt thành 14 loại cũng qui về ba phiền não căn bản tham, sân và si. Vấn đề là xét xem người đệ tử có tham nhiều hay sân nhiều, hoặc còn quá ngu si, mà định đường lối chỉ dạy và tu tập. Do đó, chỉ cần biết rõ ba hạng người: ai là người tham nhiều, ai là người hay giận, ai là người còn chậm lụt ngu si.

Với nhận xét nầy, thì mười bốn hạng tánh hạnh chia ra:

11. tánh hạnh thuộc hạng tham, gồm có:

111. tánh hạnh ham muốn,
112. tánh hạnh ham và hay giận,
113. tánh hạnh ham và ngu si,
114. tánh hạnh
đồng phần: vừa tham, giận, ngu.

12. tánh hạnh thuộc hạng hay giận hờn, gồm có:

121. tánh hạnh hay giận hờn,
122. tánh hạnh hay giận và ngu,

13. tánh hạnh thuộc hạng hay ngu si: tánh hạnh ngu si

14. tánh hạnh thuộc hạng hay tin tưởng:

141. tánh hạnh hay tin tưởng,
142. tánh hạnh hay tin tưởng và có ý trí,
143. tánh hạnh hay tin tưởng và hiểu biết,
144. tánh hạnh đồng phần: vừa có tin tưởng, vừa có ý kiến và vừa có hiểu biết.

15. tánh hạnh thuộc hạng hay có ý trí.

151. tánh hạnh hay có ý trí,
152. tánh hạnh hay có ý trí và hiểu biết.

16. tánh hạnh thuộc hạng hay có sự hiểu biết.

161. tánh hạnh hay có sự hiểu biết,
162. tánh hạnh hiểu biếttin tưởng.

Theo bảng phân loại trên, 14 loại tánh hạnh chia ra:

- tánh hạnh có khuyết điểm tham, sân si: từ số 111 đến 114 là những người tánh hạnh tham nhiều; số 121 và 122 là những người tánh hạnh hay giận nhiều; và số 13 là người tánh hạnh ngu nhiều.

- tánh hạnh có ưu điểm niềm tin, ý trí hiểu biết: từ số 141 đến số 144 là những người tánh hạnh tin tưởng nhiều; số 151 và 152 là những người tánh hạnh ý kiến nhiều; số 161 và 162 là những người tánh hạnh hiểu biết nhiều.

Như thế, ta có thể qui 14 loại tánh hạnh thành ra hai loại mà thôi: (1) hạng người tánh hạnh có nhiều sở đoản, (2) hạng người tánh hạnh có nhiều sở trường.

Và chiếu theo các sở đoản của đệ tử, vị Thầy chỉ dạy cách dẹp bỏ hết đi, và chiếu theo các sở trường của đệ tử, vị ấy chỉ dạy cách làm cho tăng trưởng thêm.

035. Tánh hạnh là động cơ bên trong thúc đẩy ra hành động ở bên ngoài, tạo thành nghiệp.

Như có ba phương tiện di chuyển: xe gắn máy, xe hơi và phi cơ, mỗi loại có động cơ mạnh yếu khác nhau khiến cho việc di chuyển nhanh, chậm cũng khác nhau. Cùng thế ấy, tánh hạnh là một loại động cơ nằm ẩn bên trong, thúc đẩy con người hành động, rồi tạo ra nghiệp; tánh hạnh lành sanh ra hành động thiện, dẫn đến nghiệp tốt ở cõi an nhàn; tánh hạnh dữ sanh ra hành động xấu, dẫn đến nghiệp ác ở cõi khổ cực.

Nói rộng thêm về thí dụ động cơ trên, tham, sân, si là những động cơ xấu; còn niềm tin, ý trí và sự hiểu biết là những động cơ tốt. Tánh hạnh con người chẳng phải thuần là tốt, hay trọn là xấu, mà cũng có lúc lành, cũng có lúc bất thiện. Đã là người còn si mê mà lại thêm tánh hay tham, thường nổi giận nữa, thì việc tu sửa theo con đường lành hẳn phải khó nhọc. Nhưng nếu tự biết mình ngu si, mà có được niềm tin tưởng nơi Phật pháp, chịu khó gần người có ý trí và hiểu biết để học thêm, thì việc sửa đổi tánh hạnh cũng chẳng khó đến mức chẳng làm nổi.

Với các nhận xét nầy, đọc lại đoạn tu mau, tu chậm trong Luận văn, sẽ thấy dễ hiểu hơn.

036. Tại sao hai tánh trái ngược nhau mà lại có chung một tướng?

Tánh hạnh thường biểu lộ ra ngoài, cho người khác thấy, bằng hình tướng. Thí dụ như người tánh vụng về, khi rót nước đổ tràn ra ngoài; nhìn thấy nước đổ, biết đó là tướng của người có tánh vụng về. Dựa theo nhận xét đó, ta sẽ thấy:

1) Hai người tánh hạnh trái ngược nhau, như người hay giận và người có ý trí, nhưng hành động của họ lại biểu lộ ra cùng chung một tướng: người hay giận cứ xét đến lỗi lầm của kẻ khác, còn người có ý trí cứ thấy những chỗ còn thiếu sót khiến cho hành vi chẳng được tốt như ý người ấy đang chờ đợi. Chính cái chỗ soi mói (của người hay giận), chỗ nhìn kỹ tỉ mỉ (của người có ý trí) là tướng chung cho cả hai tánh hạnh khác nhau và đối chọi nhau. Vì lẽ nầy mà Luận văn đã xếp họ cùng chung một "hạng". (Tôi thấy chữ hạng nầy không được chỉnh cho lắm, vì với người hay giận, tánh phải thấp hơn người kia; có lẽ nên dùng chữ nhóm, vì trong một nhóm chẳng có sự phân chia cao thấp).

Người tánh hạnh hay giận, nếu biết chuyển hướng tánh hay soi mói lỗi lầm kẻ khác sang qua thành sự xét nét tỉ mỉ các hành động chẳng lành để tránh đi, thì sự tu hành sẽ có nhiều tấn bộ đáng kể, chẳng kém gì người có ý trí.

2) Hai người, tánh hạnh hay ham muốn và tánh hạnh hay tin tưởng, có chung một tướng trong hành động khác nhau: tướng đó là tướng bám níu đối người hay ham muốn, tướng giữ vững đối với người hay tin tưởng. Người ham muốn cứ bám níu vào sự ham muốn của mình; còn người hay tin tưởng thì cứ một mực giữ vững niềm tin của mình.

Người tánh hạnh hay ham muốn nếu đem sự bám chặt vào sự việc ham muốn chuyển hướng sang sự ham biết và tin tưởng nơi Chánh pháp, việc tu hành sẽ chóng có kết quả.

3) Hai người, tánh hạnh ngu si và tánh hạnh hiểu biết, lại cũng có chung một tướng trong hành động khác nhau: tướng đó là sự di động, tâm trí của họ cứ di động, chẳng chịu ở yên. Người ngu gặp việc cứ loay hoay tìm hiểu mà chẳng hiểu được; còn người trí gặp việc cứ xét hết điểm nầy đến điểm kia chẳng ngừng. Vì chẳng ổn cố, nên trí người ngu cứ di động lăng xăng trong cảnh mê mờ, còn người hiểu biết nhiều, trí cứ mãi cân phân trong cái mớ bòng bong ý kiến.

Nếu cả hai sớm biết ổn định tâm trí lại, qui hướng tâm trí sang việc tìm hiểu Chánh pháp, thì sự tiến bộ trong việc tu hành có kết quả mau chóng rõ rệt.

Với các nhận xét vừa kể, việc tìm hiểu các câu hỏi:

- Tại sao người tánh hay giận và người tánh tin tưởng lại thành một hạng?
- Tại sao người tánh hay giận và tánh có ý trí lại cùng một loại?
- Tại sao người tánh ngu với người tánh hiểu biết lại thành một hạng?

và về việc tu mau tu chậm, sẽ hiểu được dễ dàng hơn.

037. Tánh hạnh khởi sanh do nguyên nhân nào?

Luận văn đưa ra ba nguyên nhân tạo thành tánh hạnh ngày nay: (1) do kiếp trước, (2) do các giới, (3) do các lỗi lầm.

Trong ba nguyên nhân nầy, nguyên nhân thứ nhứt, về hành động đã có từ các kiếp trước, ta chẳng thể thấy rõ được.

Về nguyên nhân thứ hai: gần các giới: điạ, thủy, phong, hoả, rất khó hiểu, tại sao gần điạ giới và thuỷ giới lại sanh tánh ngu si được, Luận văn chẳng có lời giải thích. Về nguyên nhân thứ ba, tuy gọi là do các lỗi lầm, nhưng Luận văn lại nói đến cơ thể của người có nhiều đàm dải, có nhiều gió. Có lẽ nên hiểu nguyên nhân nầy là: do cơ thể, do khí chất khác nhau nên sanh ra tánh hạnh khác nhau.

Chẳng thấy Luận văn nêu hai nguyên nhân quan trọng sau đây có ảnh hưởng rất lớn đối với tánh hạnh của con người:

(1) do di truyền hoặc do truyền thống. Thường tình thì cha dữ khó lòng sanh được con hiền, vì giòng máu di truyền. Truyền thống trong gia đình sống theo lễ giáo, thường thấy có đoàn con hiền, bầy cháu thảo.

(2) do hoàn cảnh sanh sống. Vì phải ứng phó với cuộc tranh đấu sống còn, tánh hạnh cũng vì thế mà có thể trở nên hiếu chiến hơn là hiếu hoà. Người sống vùng thôn quê thường chơn chất, thật thà hơn kẻ sanh hoạt nơi thành thị., v.v.

038. Cách quan sát người để biết tánh hạnh.

Đoạn văn ở các trang 59 đến trang 63 trong Luận văn mô tả rất đầy đủ và rất khéo léo cách thức quan sát thái độ một người để phán đoán tánh hạnh của người đó. Chỉ xin phép được thêm một đôi điều: tánh hạnh con người phần lớn tỏ lộ ra trong lời nói, giọng nói cách ăn uống. Lời nói cầu kỳ, giọng nói biếm nhẻ hàm chứa bên trong một tánh hạnh nham hiểm. Ăn vội vàng, nhai nhóc nhách để lộ tánh hạnh hấp tấp, thiếu chửng chạc, v.v.

039. Suy gẫm về Phẩm 6: Phân biệt tánh hạnh.

1) Thường nghe nói "tu tâm, dưỡng tánh", Phẩm 6 nầy bàn qua các tánh hạnh, tánh hạnh nào nên tu sửa, tánh hạnh nào dưỡng nuôi thêm lớn. Sửa được tánh hạnh điều rất khó, khó lắm, vì tánh hạnh đã ăn sâu vào tâm khảm, nhứt thời chẳng thể chuyển hoá được. Muốn thành công, ít nhứt, cần đến hai việc: (1) tìm đúng thuốc để đối trị; (2) bền chí chữa trị.

Kinh sách thường nói: người tham thì dùng phép bố thí để chữa trị. Tại sao? Tham lam sanh ra vì tâm còn bỏn sẻn và rít róng. Dùng bố thí, lấy sự xả bỏ công của khiến cho sự bỏn sẻn chẳng được dịp nảy sanh và tồn tại. Nhưng lại cần phải bền chí, thực hành bố thí lâu ngày, chày tháng, mới mong diệt bụng tham lam. Vì sao vậy? Vì đã hết tham của vật chất, thì cũng vẫn còn tham được phước sau nầy khi bố thí, dầu tham đó chẳng có chi đáng trách, nhưng cũng vẫn còn là ... tham!

2) Tánh tham, tánh giận còn có thể dễ trị, vì gốc tham (bụng bỏn sẻn) ở nơi mình, gốc giận (vì lòng tự ái) cũng ở nơi mình, muốn trị xong thì cứ ngay trong bụng mình mà ... trị. Chỉ có tánh ngu là khó trị, vì trí thông minh dầu cho là chẳng phải nơi thiên phú, bẩm sanh đi nữa, nhưng cũng phải nhìn nhận rằng có người vốn sẵn căn cơ cùn nhụt, làm sao mà biến đổi chỗ cùn nhụt đó phút chốc trở thành bén nhạy được. Thế mà, trong Kinh Pháp Cú, có một tích chuyện về một người đệ tử của Phật, học bài kệ bốn câu, thuộc câu đầu thì quên câu chót, học lại câu chót thì quên mất câu đầu. Đó là tích chuyện Ngài Tiểu Phan, nơi bài Kệ số 25, được Đức Phật chỉ dạy có hai chữ mà phá tan được màn vô minh(= ngu si) đắc quả A-la-hán.

Để chấm dứt Phần Tìm hiểu Phẩm 6: Phân biệt Tánh hạnh, xin chép lại trọn bài trong Kinh Pháp Cú, như sau:

Vào một thời kia, Đức Phật ngụ tại tu viện Trúc Lâm, trong một kỳ giảng pháp, có đề cập đến Tôn giả Tiểu Phan-tha-ca (Bàn-đặc), vị Tỳ-kheo chậm hiểu mà mau quên.

Tiểu Phan tha ca cùng với anh là Đại Phan-tha-ca, là cháu nội của một vị giám đốc ngân hàng; vị nầy thường dẫn hai cháu đi nghe giảng pháp. Về sau Đại Phan-tha-ca gia nhập Tăng đoàn, chẳng bao lâu chứng được đạo quả A-la-hán.

Tiểu Phan-tha-ca cũng theo chơn anh, đi xuất gia, nhưng vì trí thông minh chậm lụt, học đâu quên đó, một bài kệ bốn câu, thuộc câu chót thì quên mất câu đầu. Đó là vì trong tiền kiếp, vào thời Đức Phật Ca-diếp, Tiểu Phan đã trêu chọc một vị Tăng nhơn ngu tối, cho nên kiếp nầy phải sanh ra chậm hiểu mà mau quên. Anh là Đại Phan rất thất vọng về Tiểu Phan, lại thường nói Tiểu Phan chẳng xứng đáng làm Tỳ-kheo trong Tăng đoàn.

Vào độ ấy, có cư sĩ Di-hoa-ca đến đảnh lễ Phật và thỉnh Phật cùng chư Tăng về nhà để dâng cúng thực phẩm. Đức Phật nhận lời. Đại Phan lúc bấy giờ chịu trách nhiệm sắp xếp để chư Tăng đi thọ thực. Trong danh sách, tất cả tăng chúng đều được mời đi, nhưng Đại Phan lại bỏ tên của Tiểu Phan ra. Khi Tiểu Phan biết được tin ấy, liền sanh ra ưu phiền, cho rằng mình chẳng xứng đáng, mới tính trở về nhà, hoàn tục. Đức Phật đọc rõ ý định đau buồn đó của Tiểu Phan, mới gọi Tiểu Phan theo Ngài về Hương phòng. Đức Phật lấy ra một cái khăn trắng, bảo Tiểu Phan ngồi xuống, cầm lấy khăn, mặt hướng về phương Đông, tay chà khăn, miệng đọc hai tiếng: "Lau sạch!". Sau đó, Đức Phật liền lên đường đến nhà cư sĩ Di hoa ca.

Ngồi trong hương phòng, Tiểu Phan chăm chú làm theo lời Phật dạy, tay chà khăn, miệng đọc: "Lau sạch!" chẳng hề ngừng nghỉ. Chẳng bao lâu, cái khăn trắng dính dơ, đổi thành màu ngà ngà. Miệng vẫn đọc, tay vẫn chà, Tiểu Phan nhận thấy sự biến đổi của cái khăn và đồng thời trong tâm quán tưởng được tánh cách vô thường của mọi vật hữu vi. Bấy giờ Đức Phật, từ nhà của Di hoa ca, đọc được tư tưởng đó của Tiểu Phan, Ngài liền dùng thần thông chiếu hào quang lên và hoá hình ra ngồi trước mặt Tiểu Phan. Ngài bảo Tiểu Phan: "Chẳng phải chỉ có cái khăn bị dính bụi dơ mà thôi đâu, bên trong tâm mọi người có ba chất bẩn là tham, sân, si. Nếu biết "lau sạch" ba chất dơ đó trong tâm, thì Tỳ-kheo sẽ đạt được mục tiêuchứng đắc đạo quả A-la-hán." Tiểu Phan nghe nhận được lời Phật dạy, tiếp tục quán tưởng, và chẳng bao lâu liền chứng đắc quả vị A-la-hán, gột rửa được chỗ u tối trong tâm trí.

Vào lúc ấy, nơi nhà cư sĩ Di-hoa-ca đang sửa soạn dâng thực phẩm lên Đức Phật và tăng chúng. Đức Phật liền lấy tay che bát lại, và nói: "Còn thiếu một Tỳ-kheo, chưa được mời đến dự." Cư sĩ vội sai người chạy đến tu viện Trúc Lâm; rồi một lát sau, Tỳ-kheo Tiểu Phan-tha-ca theo người đày tớ của cư sĩ bước vào nhà. Sau khi thọ thực xong, Đức Phật mời Tiểu Phan thuyết pháp. Bấy giờ, Tiểu Phan với lòng đầy tự tín, nói thao thao bất tuyệt, giọng như con sư tử rống!

Khi trở về tịnh xá, chúng Tăng bày tỏ sự ngạc nhiên, thấy Tiểu Phan thuyết pháp rất hay, Đức Phật liền thuật lại việc Tiểu Phan đã tập luyện với hai tiếng "Lau sạch" một cách tinh cần, khẩn thiết, nên đã chứng đắc quả Thánh.

Rồi Đức Phật đọc lên bài Kệ sau đây:

Bằng vào tỉnh giácnỗ lực,
Giới đức cao, điều phục các căn;
Xem kià bực trí xây hòn đảo,
Lũ lụt dầu to khó ngập tràn. (Kệ số 025)

Xin ghi chú thêm:

Tiểu Phan-tha-ca, nguyên là tiếng Pàli Cùla Panthaka, chữ Cùla có nghiã là nhỏ, tiểu. Còn Đại Phan-tha-ca, tiếng Pàli là Mahà Panthaka, Mahà là lớn, đại. Đó là tên được Việt hoá. Trung hoa phiên âm tên Cùla Panthaka Châu-lợi Bàn-đà-già (hay Bàn-đặc).

Di-hoa-ca = tiếng Pàli là Jivaka.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49759)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34636)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33453)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43934)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57086)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47571)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39421)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38485)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52949)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36610)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32245)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40485)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43496)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31470)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46718)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36214)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28711)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29249)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31896)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28840)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33372)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29143)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60989)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39785)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26689)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29677)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37395)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40104)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26855)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42667)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37289)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28298)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28900)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26402)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27176)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26197)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34682)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27817)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30485)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33297)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28573)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30083)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25494)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21852)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51321)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26740)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28631)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27717)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24363)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27465)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31950)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30187)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27712)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35463)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27452)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30024)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31787)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23031)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24187)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23030)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant