Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 15: Từ đất xuất hiện

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9024)
Phẩm 15: Từ đất xuất hiện

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

CUỐN 5

Phẩm 15: Từ đất xuất hiện

 Lúc ấy các vị bồ tát đại sĩ từ các quốc độ khác đến quốc độ này, nhiều hơn tám hằng sa, đứng dậy trong đại hội, chắp tay đảnh lễ mà thưa, bạch đức Thế Tôn, nếu ngài cho phép chúng con, sau khi ngài nhập diệt, ở tại quốc độ Kham nhẫn này, nỗ lực tinh tiến mà kính giữ Pháp Hoa, thì chúng con nguyện ở tại đây mà diễn giảng kinh ấy một cách phong phú. Đức Thế Tôn bảo các vị bồ tát đại sĩ, hãy thôi, chư thiện nam tử, khỏi phiền chư vị kính giữ Pháp Hoa tại quốc độ này. Quốc độ này của Như Lai tự có sáu vạn hằng sa bồ tát đại sĩ, mỗi vị lại có sáu vạn hằng sa tùy thuộc. Thầy trò các vị này có thể, sau khi Như Lai nhập diệt, kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, công bố rộng rãi...

Khi đức Thế Tôn nói như vậy thì đất của toàn thể đại thiên quốc độ Kham nhẫn đều chấn động mà nứt ra, và từ đó có vô số bồ tát đại sĩ cùng lúc vọt lên. Các vị ấy thân toàn màu hoàng kim, đủ cả ba mươi hai tướng quí, và ánh sáng thì vô số lượng. Các vị cùng ở trong không gian phía dưới quốc độ Kham nhẫn này, nghe tiếng đức Thế Tôn nói như trên nên từ đó dũng xuất. Các vị toàn là những bậc đạo sư, dẫn theo đại chúng bồ tát tùy thuộc: Nhiều vị, mỗi vị dẫn theo sáu vạn hằng sa tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo năm vạn, bốn vạn, ba vạn, hai vạn hay một vạn hằng sa tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo một hằng sa, một phần nửa của một hằng sa, một phần tư của một hằng sa, cho đến một phần ngàn vạn ức trăm triệu của một hằng sa tùy thuộc. Nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ngàn vạn ức trăm triệu tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ức vạn tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ngàn vạn, trăm vạn cho đến một vạn tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo một ngàn, một trăm cho đến một chục tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo năm, bốn, ba, hai hay một tùy thuộc. Và nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ đến đơn độc, vì thích sống tách rời. Thầy trò các vị bồ tát đại sĩ như thế này thật vô lượng vô biên, toán số ví dụ cũng không thể xác định.

Thầy trò các vị từ đất xuất hiện rồi, cùng đến chỗ đức Đa Bảo và đức Thích Ca, nơi ngôi tháp do bảy chất liệu quí báu kết hợp, ở trong không gian. Đến rồi, các vị hướng về hai ngài mà đem đầu mặt lạy ngang chân. Các vị lại đến chỗ chư Phật phân thân ngồi trên tòa sư tử ở dưới các cây ngọc, làm lễ cũng như vậy. Theo chiều bên phải, các vị đi quanh chư Phật phân thân mỗi ngài ba vòng, chắp tay, cung kính, đem những cách thức tán dương của bồ táttán dương các ngài. Rồi đứng lại một phía, các vị hân hoan chiêm ngưỡng đức Đa Bảo và đức Thích Ca. Thì gian các vị mới xuất hiện cho đến tán dương xong, trải qua hết năm chục thời kỳ bậc nhỏ. Trong thì gian ấy, đức Thế Tôn ngồi yên lặng. Bốn chúng cũng yên lặng trong năm chục thời kỳ bậc nhỏ ấy. Nhưng do thần lực của đức Thế Tôn nên làm cho cả đại hội coi như nửa ngày mà thôi.

Lại nhờ thần lực của đức Thế Tônbốn chúng thấy các vị bồ tát đại sĩ như thế này đầy khắp không gian của quốc độ Kham nhẫn mà, lúc bấy giờ, quang cảnh tựa như không gian của vô lượng quốc độ. Rồi bốn vị trong số các vị đạo sư, thứ nhất danh hiệu Thượng Hạnh, thứ hai danh hiệu Vô biên Hạnh, thứ ba danh hiệu Tịnh Hạnh, thứ tư danh hiệu An lập Hạnh, là bốn vị đạothượng thủ, cùng đứng trước đại chúng bồ tát ấy, chắp hai tay lại, nhìn đức Thích Ca mà vấn an, rằng bạch đức Thế Tôn, ngài ít bịnh, ít phiền, sống yên vui chăng? Những người đáng được ngài hóa độ, họ có tiếp nhận sự hóa độ ấy một cách dễ dàng để làm cho ngài khỏi phải mệt nhọc chăng? Bốn vị cùng lặp lại sự vấn an của mình bằng lời chỉnh cú sau đây.

(1) Thế Tôn yên vui

ít bịnh ít phiền,

hóa độ chúng sinh

không mệt nhọc chăng?

(2) Chúng sinh dễ dàng

tiếp nhận hóa độ

để làm cho ngài

khỏi mệt nhọc chăng?

Khi ấy đức Thế Tôn bảo đại chúng bồ tát, đúng như vậy, chư thiện nam tử; Như Lai yên vui, ít bịnh ít phiền, những người đáng được hóa độ cũng dễ hóa độ, không mệt nhọc gì. Những người này bao đời đến nay thường tiếp nhận sự giáo hóa của Như Lai, lại hiến cúng tôn trọng mà gieo trồng thiện căn ở nơi chư Phật quá khứ. Những người này mới thấy thân Như Lai, mới nghe lời Như Lai, là tức thì tin tưởng chấp nhận, nhập vào tuệ giác Như Lai. Ngoại trừ những người trước đây tu học theo giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ; những người như vậy ngày nay Như Lai cũng làm cho nghe được Pháp Hoa mà nhập được Phật tuệ. Nghe đức Thế Tôn dạy như vậy, bốn đại bồ tát lại nói lời chỉnh cú sau đây.

(3) Tốt thay, lành thay,

Thế Tôn đại hùng!

bao nhiêu chúng sinh

hóa độ dễ dàng!

(4) Họ có thể hỏi

về tuệ giác Phật

cực kỳ sâu xa,

hỏi rồi nghe được

nghe rồi tin được

tin rồi làm được.

Tất cả chúng con

kính xin tùy hỷ.

Đức Thế Tôn tán dương bốn vị đại bồ tát thượng thủ, tốt lắm, chư thiện nam tử, các vị có thể có sự tùy hỷ như vậy đối với Như Lai.

Vào lúc bấy giờ, đức Di Lạc cùng chúng chư bồ tát nhiều đến tám ngàn hằng sa, đều nghĩ rằng, từ trước đến nay, chúng ta không thấy không nghe chúng đại bồ tát như vầy, từ đất dũng xuất, đang đứng trước đức Thế Tônchắp tay hiến cúng và vấn an. Đức Di Lạc biết ý nghĩ trong lòng tám ngàn hằng sa bồ tát, lại muốn giải trừ nghi hoặc của mình, nên chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà thưa hỏi bằng những lời chỉnh cú sau đây.

(5) Đại chúng bồ tát

vô lượng vạn ức

như thế này đây

con chưa từng thấy.

Thưa đấng hoàn hảo

phước đức tuệ giác!

xin ngài dạy cho

chúng con được rõ.

(6-Các vị như vầy

7) từ đâu đến đây?

lý do nào

mà qui tụ lại?

Thân thể cao lớn,

thần thông quảng đại,

trí tuệ khó lường,

trí nhớ vững chắc,

nhẫn lực vĩ đại,

ai cũng thích nhìn:

các vị như vậy

từ đâu đến đây?

(8) Mỗi vị đại sư

dẫn theo đệ tử

số lượng vô số

tính theo hằng sa.

(9) Có những đại sư

dẫn theo đệ tử

số lượng nhiều bằng

sáu vạn hằng sa,

mà con xem ra

đệ tử như vậy

ai cũng nhất tâm

cầu tuệ giác Phật.

(10) Những đại sư này

đã nhiều bằng số

sáu vạn hằng sa,

cùng nhau đến đây

để được hiến cúng

đối với Thế Tôn,

và được coi giữ

kinh Pháp Hoa này.

(11-Còn các đại sư

22) dẫn theo đệ tử

năm vạn hằng sa,

số đại sư này

lại càng nhiều hơn

số đại sư trên.

Các vị dẫn theo

bốn vạn ba vạn

hai vạn một vạn

một ngàn một trăm

đến một hằng sa,

phần nửa phần ba

cùng với phần tư,

cho đến một phần

vạn ức trăm triệu

của một hằng sa,

số đại sư này

càng nhiều hơn trên.

Các vị dẫn theo

vạn ức trăm triệu,

dẫn theo vạn ức,

cho đến nửa ức,

số đại sư này

càng nhiều hơn trên.

Các vị đại sư

dẫn theo trăm vạn,

cho đến một vạn,

một ngàn một trăm

năm chục một chục

đến ba hai một;

và các đại sư

chỉ đến đơn độc,

vì thích đơn độc

không có đệ tử.

Tất cả cùng đến

chỗ Thế Tôn đây,

số lượng tuần tự

càng nhiều hơn trên.

(23) Đại chúng bồ tát

như con vừa nói,

nếu ai phát thẻ

để đếm số lượng,

thì qua thời kỳ

nhiều hơn hằng sa,

cũng vẫn không thể

đếm mà biết hết.

(24) Đại chúng bồ tát

mà cả uy đức

và sự tinh tiến

cùng vĩ đại này,

ai đã thuyết pháp

giáo hóa tác thành?

(25) Họ từ vị nào

bắt đầu phát tâm?

và đã tuyên dương

giáo pháp Phật nào?

đã từng tiếp nhận

thực hành kinh nào?

và từ Phật nào

họ tu Phật tuệ?

(26-Đại chúng bồ tát

27) như thế này đây

thần lực trí lực

thật là vĩ đại:

khắp quốc độ này

đất chấn động cả,

và họ từ đó

mà cùng dũng xuất.

(28) Bạch đức Thế Tôn,

từ trước đến nay

con chưa hề thấy

sự trạng như vầy.

Xin ngài nói cho

danh hiệu quốc độ

mà các vị này

từ đó đến đây.

(29) Con thường du hóa

khắp các quốc độ,

mà chưa hề thấy

các vị như vầy.

(30) Trong các vị này

đến nỗi một người

con cũng không biết.

Các vị bỗng nhiên

từ đất xuất hiện.

Xin đức Thế Tôn

nói rõ nguyên ủy

của các vị ấy.

(31) Trong đại hội đây

chúng chư bồ tát

vô số vạn ức

muốn biết điều này.

(32) Nguyên ủy gốc ngọn

của các vị ấy

là như thế nào,

thưa đấng Thế Tôn

trí đức vô lượng,

xin ngài dạy rõ

để giải ngờ vực

cho cả các chúng.

Chư Phật phân thân của đức Thế Tôn, đến đây từ vô số quốc độ ở mọi phương hướng, hiện vẫn ngồi xếp bằng trên tòa sư tử dưới các cây ngọc khắp cả tám hướng. Các vị thị giả của chư Phật ấy ai cũng thấy đại chúng bồ tát vọt lên từ đất khắp cả đại thiên quốc độ này, và đứng trong không gian. Mỗi vị thị giả thưa với đức Phật của mình, rằng bạch đức Thế Tôn, đại chúng bồ tát vô lượng vô biên vô số này từ đâu đến đây? Chư Phật ngài nào cũng bảo vị thị giả của mình, rằng thiện nam tử, hãy chờ một lát. Vị đại bồ tát danh hiệu Di Lạc, người được đức Thích Ca Thế Tôn thọ ký làm Phật kế ngài, đã hỏi ngài về việc này. Ngài sắp giải đáp, nhân đó các người sẽ được nghe.

Khi ấy đức Thế Tôn bảo, tốt lắm, Di Lạc, đại sĩ có thể hỏi Như Lai về việc quan trọng như vậy. Chư vị hãy cùng nhau tập trung tâm trí, khoác áo giáp tinh tiến, phát ý chí cứng chắc. Như Lai nay muốn phát lộ về tuệ giác của Như Lai, thần thông của Như Lai, khí lực của Như Lai, uy lực của Như Lai. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(33) Hãy cố nỗ lực

tập trung tâm trí.

Như Lai sắp nói

về sự thể này.

Chư vị đừng có

hoài nghi thắc mắc.

Tuệ giác Như Lai

ngoài tầm lý luận.

(34) Hôm nay chư vị

hãy xuất sức mạnh

của sự tin tưởng,

hãy đứng vững chắc

trong sự nhận định

và sự tế nhị.

Vì lẽ những gì

xưa nay chưa nghe

thì nay chư vị

sẽ được nghe đến.

(35) Như Lai hôm nay

an ủi như vậy,

để cho chư vị

khỏi ngờ khỏi sợ.

Như Lai không có

lời nói không thật,

tuệ giác Như Lai

không thể lường nổi.

(36) Cái pháp bậc nhất

Như Lai thực hiện,

là pháp rất sâu,

trên sự phân tích.

Pháp ấy Như Lai

nay sắp nói đến.

Tất cả chư vị

chú ý lắng nghe.

Nói nói những lời chỉnh cú ấy rồi, đức Thế Tôn bảo đức Di Lạc, hôm nay, giữa đại hội các chúng như vầy, Như Lai tuyên cáo để chư vị biết. Di Lạc, đại chúng bồ tát vô lượng vô số, từ đất dũng xuất và chư vị xưa nay chưa thấy đây, là do Như Laithế giới hệ Kham nhẫn này, thành tựu tuệ giác vô thượng rồi giáo hóa chỉ dẫn cho các vị ấy thuần hóa tính ý, phát tâm tuệ giác. Các vị ấy ở trong không gian phía dưới thế giới hệ này. Đối với kinh pháp, các vị đọc tụng thông suốt, suy xét, phân tích và ghi nhớ chính xác. Di Lạc, các thiện nam tử này không thích ở chỗ đông đảo và nói năng nhiều lời, thường xuyên thích nơi yên tĩnh, nỗ lực tinh tiến, chưa từng dừng nghỉ. Các vị không sống với nhân loại hay chư thiên. Các vị thường ưa thích tuệ giác sâu xa, không bị trở ngại, nghĩa là thường ưa thích giáo pháp chư Phật, chuyên tâm tinh tiến mà cầu đạt cho được tuệ giác vô thượng. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(37) Di Lạc đại sĩ,

chư vị nên biết,

đại chúng bồ tát

như thế này đây,

vô số thời kỳ

cho đến bây giờ,

thường xuyên tu tập

tuệ giác Phật đà.

(38) Các vị toàn do

Như Lai giáo hóa

làm cho phát ra

tâm đại bồ đề.

Các vị như vầy

là con Như Lai,

và sống ngay nơi

thế giới hệ này.

(39) Thường hành đầu đà

thích nơi yên tĩnh,

tách rời đông đảo

ồn ào náo nhiệt,

không ưa nói bàn

nhiều điều lắm chuyện.

Những con Phật này

học tập về pháp

tuệ giác vô thượng

của Như Lai đây,

ngày đêm thường xuyên

nỗ lực tinh tiến

để cầu đạt được

tuệ giác Phật ấy.

(40-Tất cả các vị

41) cùng nhau ở trong

không gian phía dưới

quốc độ Kham nhẫn.

Trí lực khí lực

đều rất vững chắc,

thường xuyên tinh tiến

cầu tuệ giác Phật.

Các vị tuyên thuyết

đủ loại chánh pháp

mà trong tâm tưởng

không e sợ gì.

(42) Như Lai ngồi dưới

bồ đề đại thọ

gần thành Già da,

thành tựu tuệ giác

tuyệt đối chính xác,

chuyển đẩy bánh xe

chánh pháp tối thượng,

bấy giờ Như Lai

mới giáo hóa cho

các vị như vầy,

làm họ bắt đầu

phát tâm tuệ giác,

đến nay cùng đến

vị trí bất thoái,

và ai cũng sẽ

thành đức Phật đà.

(43) Như Lai hôm nay

nói lời rất thật.

Chư vị một lòng

mà tin Như Lai.

Rằng chính Như Lai

từ lâu đến nay

giáo hóa đại chúng

bồ tát như vầy.

Bấy giờ trong lòng đức Di Lạc và vô số bồ tát lại sinh nghi hoặc, lấy làm quái lạ, cho là một sự chưa từng có mà nghĩ rằng, đức Thế Tôn làm cách nào mà trong một thời gian ít ỏi, đã giáo hóa cho đại bồ tát vô lượng vô số như vầy, làm cho tất cả đều đứng vững ở trong tuệ giác vô thượng? Nghĩ như vậy nên đức Di Lạc thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, ngài làm thái tử, thoát ly hoàng cung họ Thích, cách thành Già da không xa, ngồi nơi bồ đề tràng, thành đạt tuệ giác vô thượng, từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm. Trong thì gian ngắn ngủi như vậy mà tại sao ngài có thể làm được một cách lớn lao việc làm của Phật, ấy là đem khí lực của Phật và dùng đức tính của Phật mà giáo hóa số đại bồ tát như vầy sẽ thành tuệ giác vô thượng _ số đại bồ tátgiả sử có người đếm đến ngàn vạn ức thời kỳ cũng không biết được số lượng, không tìm được giới hạn, số đại bồ tátchắc chắn từ lâu xa cho đến bây giờ đã ở nơi chỗ vô biên chư Phật mà gieo trồng gốc rễ pháp lành, thành thục đường đi của bồ tát, thường xuyên tu tập phạn hạnh? Bạch đức Thế Tôn, điều đó quả là cả thế gian đều khó tin. Ví như có kẻ sắc tốt, tóc đen, tuổi mới hai mươi lăm, mà chỉ những người trăm tuổi, nói rằng đây là con ta, những người trăm tuổi cũng chỉ người trẻ tuổi, nói rằng đây là cha, đã sinh ra và nuôi lớn chúng ta, thì đó là việc thật khó tin. Đức Thế Tôn cũng vậy. Từ khi ngài thực hiện tuệ giác vô thượng cho đến ngày nay thực ra chưa lâu, còn đại chúng bồ tát này thì chắc chắn đã trải qua vô lượng thời kỳ, vì tuệ giác Phật đànỗ lực tinh tiến, khéo vào khéo ở và khéo ra đối với vô số chánh định, được đại thần thông, lâu tu phạn hạnh, lại khéo tuần tự tu tập các loại thiện pháp, khéo hỏi khéo đáp, nói tóm, họ là bảo vật trong mọi người, hiếm có nhất thế giới. Vậy mà ngày nay đức Thế Tôn lại bảo ngài thực hiện tuệ giác Phật đà rồi mới làm cho các vị ấy phát tâm đại bồ đề, giáo hóa chỉ dẫn cho các vị ấy hướng đến tuệ giác vô thượng. Nghĩa là đức Thế Tôn trở thành đấng Toàn giác chưa bao lâu mà thực hiện được thành quả vĩ đại như vậy! Dẫu rằng chúng con tin sự tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn, tin lời đức Thế Tôn nói chưa bao giờ không thật, tin sự thấy biết của đức Thế Tôn là thấu suốt tất cả, nhưng các vị bồ tát mới phát tâm, sau khi đức Thế Tôn nhập diệt mà nghe thấy những lời này, thì có thể có kẻ không tin tưởng tiếp nhận, sinh ra cái lỗi bài bác chánh pháp. Dạ, chính vì vậy, bạch đức Thế Tôn, con xin ngài giảng dạy, giải trừ nghi hoặc cho chúng con, lại làm cho bao nhiêu thiện namthiện nữ trong thì vị lai nghe được việc này cũng không nghi hoặc. Đức Di Lạc muốn lặp lại ý nghĩa đã thỉnh cầu, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.

(44) Trước đây Thế Tôn

thoát ly hoàng cung

của dòng họ Thích,

đến gần Già da

mà ngồi ở nơi

bồ đề đại thọ.

Từ đó đến nay

chưa được bao lâu.

(45) Vậy mà Thế Tôn

lại có những người

con Phật như vầy

số lượng vô số,

từ lâu đi theo

tuệ giác của Phật,

đã đứng vững vàng

trong thần thông lực,

đã khéo tu học

đường đi bồ tát.

(46) Không hề nhuốm bẩn

theo thói thế gian

y như hoa sen

không dính bùn nước,

những con Phật này

từ đất xuất hiện,

và cùng cung kính

đứng trước Thế Tôn.

(47) Sự thể thế này

thật khó suy luận.

Làm sao tin được

Thế Tôn thành tựu

tuệ giác Phật đà

mới rất gần đây,

lại tác thành cho

rất nhiều bồ tát

đã được nhiều việc

như thế này đây?

Để giải nghi ngờ

cho cả các chúng,

con xin Thế Tôn

chỉ dạy đúng như

sự thực được có

trong vấn đề này.

(48-Như người trẻ mạnh

49) tuổi mới hâm lăm

mà nói với người:

những kẻ trăm tuổi

tóc bạc mặt nhăn

già cả thế kia

là con tôi sinh,

những người thế kia

cũng nói người trẻ

là cha chúng tôi.

Cha trẻ con già,

đời ai tin được.

(50-Thế Tôn cũng vậy;

51) từ khi thực hiện

tuệ giác vô thượng

cho đến ngày nay,

thì gian được có

mới rất gần đây.

Còn các bồ tát

đến như thế này

trí nhớ vững chắc,

không còn khiếp nhược,

vô lượng thời kỳ

cho đến ngày nay

đi theo con đường

của bồ tát đi,

khéo hỏi khéo đáp

tâm không sợ hãi,

ẩn nhẫn cực nhục,

tâm trí quyết đoán,

tướng mạo tuyệt mỹ,

uy đức toàn hảo,

Phật đà mười phương

đều ca tụng cả,

khéo léo phân tích

diễn giảng pháp nghĩa,

(52) không thích ở nơi

những chỗ đông người

mà thường thích thú

ở trong thiền định,

vì cầu tuệ Phật

mà họ cùng nhau

ở trong không gian

dưới quốc độ này.

(53-Chúng con trực tiếp

54) nghe Thế Tôn nói,

nên với việc này

không ngờ vực gì.

Nhưng xin Thế Tôn

vì người tương lai

giải thích việc này

cho họ hiểu rõ.

Vì lẽ nếu ai

ngờ vực không tin

kinh Pháp Hoa này

thì sa đường dữ,

nên con thỉnh cầu

ngài giải thích cho:

Đại chúng bồ tát

vô số như vầy,

tại sao Thế Tôn

trong thì gian ngắn

có thể dạy cho

bắt đầu phát tâm

cho đến đến nơi

vị trí bất thoái?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49750)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34630)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33450)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43927)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57076)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47566)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39419)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38479)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52938)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36598)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32241)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40475)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43489)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31454)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46713)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36210)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28697)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29241)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31890)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28831)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33364)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29138)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60976)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39774)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26675)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29667)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37382)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40088)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26841)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42657)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37286)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28287)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28896)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26394)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27172)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26185)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34646)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27804)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30475)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33284)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28568)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30079)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25493)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21846)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51303)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26727)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28627)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27706)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24360)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27462)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31931)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30186)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27702)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35444)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27445)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30014)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31774)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23026)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24180)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23023)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant