Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Phẩm Thứ Năm: Dược thảo

22 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10763)
5. Phẩm Thứ Năm: Dược thảo

SEN NỞ TRỜI PHƯƠNG NGOẠI
Thầy Nhất Hạnh giảng kinh Pháp Hoa
Nhà xuất bản Lá Bối 2001

Phần II: Kiến giải Pháp Hoa Kinh

Phẩm Thứ Năm: Dược thảo

Bây giờ chúng ta hãy đi sang Phẩm thứ năm là Phẩm Dược Thảo. Ở đây Bụt lại đưa ra một cái thí dụ nữa cũng rất hay. Dược thảo tức là những cây thuốc. Ngày xưa người ta không dùng thuốc hóa học mà chỉ dùng thuốc cây cỏ. Trong phẩm này Bụt nói cho thầy Ca Diếp và các vị đại đệ tử khác biết rằng, Bụt nhìn vào tâm lý của chúng sanhcăn cứ vào cái nhận thức của Bụt để nói pháp. 

Thuyết pháp hay hay dở, thành công hay thất bại không phải là do cái khoa nói của mình hay hay dở, cũng không phải do cái kiến thức Phật pháp của mình sâu hay cạn, mà chính là do cái khả năng quán cơ của mình. Quán cơ tức là thấy được cái tâm trạng, cái tâm lý, cái trường hợp của người nghe. Quán tức là nhìn để thấy, cơ tức là tình trạng tâm lý, tình trạng xã hội của người kia. Vì vậy cho nên nếu mình muốn độ đời thì mình phải học cái pháp môn gọi là quán cơ. Nhận xét người đó, nghe người đó, nhìn người đó để có thể hiểu được người đó, và khi hiểu được thì tự nhiên cái Pháp mình đem hiến tặng cho họ, sẽ là cái Pháp có thể có ảnh hưởng tốt đẹp cho họ. Có khi đối với người này thì mình thuyết cái pháp này, nhưng đối với người khác thì phải thuyết cái đề tài khác. Cũng như vị thiền sư kia, khi một thiền sinh hỏi con chó có Phật tánh không, thì trả lời là có. Một thiền sinh khác cũng lên hỏi câu đó thì ông nói không. Cái có cái không đó, không phải từ kinh điển đi ra, hay từ cái nguyên tắc gì đi ra, mà từ chỗ quán cơ mà phát xuất. Đối với thiền sinh này, ta phải nói có. Có thì mới có lợi, còn đối với thiền sinh kia thì phải nói không mới có lợi. Đối với thiền sinh này mình phải nói nhẹ nhàng mới thành công, với thiền sinh kia, mình phải quát lên một tiếng mới thành công. Cái đó là do quán cơ chớ không phải là do sự yêu ghét của người thuyết pháp.

Ở đây đại ý lời Bụt nói với thầy Ca Diếp là: Này thầy Ca Diếp, thầy nên biết Như Lai là Vua của các Pháp, nếu có nói ra lời nào thì lời đó đều không có tính cách hư dối, nói thật cả. Nói có cũng là thật, nói không cũng là thật, nói Đại Thừa là thật, mà nói Tiểu Thừa cũng là thật. Đây là cái thái độ phổ quát, thái độ bao dung, thái độ dung hợp. Đối với tất cả các pháp, Bụt dùng trí tuệ, dùng phương tiện mà diễn bày chánh pháp. Tất cả những pháp của Phật nói đều có khả năng đưa người ta tới bậc nhất thiết trí. Chữ bậc ở đây nguyên là chữ địa, tức là cái địa vị của nhất thiết trí, nghĩa là cái trí tuệ cao vời và tuyệt đốiĐức Như Lai quán và biết được chỗ quy thú của tất cả các pháp (quy thú tức là chỗ về cuối cùng), cùng biết rõ cái tâm hành của tất cả chúng sanh, biết thấu suốt không bị ngăn cách gì cả. Ý về muôn vạn nẻo, Như Lai đều biết hết, cái tâm của chúng sanh đi ngoằn ngoèo như thế nào, đi về phía này, đi về phía kia, Như Lai nhìn vào là thấy hết. Đó là nói về tâm chúng sanh, còn nói về sự vật và giáo lý, thì đối với tất cả các pháp, Bụt đều có cái nhận thức tuyệt đối, có khả năng chỉ bày tất cả trí tuệ cho chúng sanh. Trên căn bản đó, giáo lý của Bụt được ban bố ra một cách rất có hiệu quả.

Lúc bấy giờ Bụt mới nêu lên một ví dụ gọi là dược thảo. Cõi tam thiên đại thiên thế giới, có những vùng thung lũng, ruộng đồng, vườn tược, trong đó có bao nhiêu loại cây cối. Các loại đó có hàng chục vạn thứ, và mỗi thứ đều có tên riêng, mỗi thứ đều có tính cách riêng, mỗi thứ đều có nếp sống riêng, không giống nhau. Cũng như chúng sanh có rất nhiều loài, tâm trạng của loài này như thế này, tâm trạng của loài kia như thế kia, hoàn cảnh sinh hoạt của người này như thế này, hoàn cảnh xã hội của người kia như thế kia.

Chúng sanh tương tự như muôn ngàn loài thảo mộc, mọc lên trên những môi trường khác nhau.

Một hôm, mây kéo đến trùm khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới và làm thành mưa rơi xuống. Trong khi đó thì tất cả các loại cây cối, loại nào cũng được thấm nhuần cái ân đức của mưa. Có những cây rất nhỏ, cành lá khẳng khiu, có những cây rất lớn, có những cây vừa vừa, có đủ loại, đủ thứ, đủ giống cả. Loại cây nào cũng được thừa hưởng trận mưa đó một cách rất đầy đủ. Pháp của Bụt cũng vậy, Pháp của Bụt không phải để nói, để phục vụ cho một giai cấp, cho một hạng người, dầu giai cấp đó là Bồ Tát, là Bà la môn, hay Sát đế lợiGiáo pháp của Như Laitính cách phổ biến, và có khả năng phục vụ cho tất cả mọi loài chúng sanh, không kể giai cấp, không kể chủng tộc hay trí tuệ.

Đến trang 185 thì chúng ta tìm lại được cái ý niệm về Pháp của Bụt, nó chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Ở trong kinh Nam truyền chúng ta cũng đã học được điều này rồi. Bụt nói, Pháp của ta chỉ có một vị là vị gỉải thoát, cũng như nước ở trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn. Năm hàng chót của trang 185: Đức Như Lai nói pháp một tướng, một vị, nghĩa là tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, rốt ráo đến bậc nhất thiết chủng trí. Cũng như nước mưa nó có một công năngnuôi dưỡng các loài thảo mộc, làm cho các loài thảo mộc được sinh trưởng, thì Pháp của Như Lai cũng vậy.

Sang trang 186 chúng ta lại còn thấy rõ ràng hơn. Vì sao vậy? vì Như Lai thấy được cái chủng loại, cái hình tướng, cái bản thể, cái tính chất của chúng sanh, cho nên Như Lai có thể thuyết pháp để làm lợi cho chúng sanhTâm niệm của những chúng sanh đó hay nhớ chuyện gì, hay nghĩ chuyện gì, chúng sanh đó cần phải đi theo con đường thực tập nào, phải thực tập tư duy như thế nào, chánh niệm như thế nào, dùng những pháp môn nào để duy trì chánh niệm, dùng những pháp môn nào để tư duy, để tu tập, và nếu tu tập theo pháp nào thì sẽ đạt được những kết quả nào v.v... Tất cả những điều đó đều có sẵn trong trí tuệ của Bụt. Chúng sanhthể không thấy được cái căn tính của mình, nhưng Bụt thì thấy được cái căn tính của chúng sanh, như là các loại cây cỏ trong rừng thì không biết được cái bản tính của chúng, nhưng nước mưa thì có thể biết được, và nước mưa có thể phục vụ cho các loài đó được. Nước mưa kia nó chỉ có một mục đích duy nhất là làm thế nào cho tất cả các loài cây cối được sinh trưởng tốt đẹpGiáo lý của đức Như Lai cũng vậy, chỉ có một mục đích duy nhất là khiến cho tất cả các loài chúng sanh đạt được giải thoát, đạt được viễn ly, đạt được tịch diệtđạt được cái mục đích cuối cùngNhất thiết chủng trí.

Như vậy thì khi nói Pháp, các đức Bụt luôn luôn căn cứ trên nguyên tắc gọi là tùy cơ nghi, tức là theo trình độ, theo trường hợp mà nói pháp. Nhiều khi tôi giảng xong một bài pháp, dù bài đó là giảng cho đồng bào người Việt, cho người Anh, hoặc cho người Mỹ, thì sau đó thường có những người lên nói, hồi nãy thầy giảng riêng cho con đó phải không? Họ có cảm tưởng là thầy đang nói về mình. Nhưng thực ra thì không phải vậy, vì khi giảng cho một khóa tu 200 người, ta phải dùng thì giờ đó để phục vụ cho 200 người, chứ mình đâu có thể dùng một tiếng hay hai tiếng đồng hồ để nói riêng với một người được? Như thế là không công bằng! Vậy mà có người cứ tưởng thầy nói bài pháp đó cho mình hoặc để rầy la mình. Lấy một bài pháp dài hai tiếng đồng hồ để la rầy một người thì uổng quá, và tội nghiệp cho 199 người kia quá. Thường có những người nghĩ như vậy. Họ thấy thầy nói trúng tim đen của mình, nên nghĩ là sáng nay thầy đã nói riêng cho mình đó! Sự thực là với một nhóm thính chúng dù là người Việt, người Mỹ, người Anh, hoặc người Đức, trước khi nói pháp, ta phải quán cơ. Nghĩa là phải biết trường hợp chung của những người này là như thế nào, những pháp mônđa số những người này có thể tiếp nhậnthực tập được là những pháp môn nào. Trước khi bắt đầu, ta phải có một cái nhìn cho chính xác, ta phải quá cơ, nếu không thì bài thuyết pháp của mình sẽ thất bại. Vì vậy trước khi đi hoằng pháp ở Nga, hay ở Tiệp khắc, chưa biết căn cơ của họ ra sao mà mình đã làm sẵn một bài thuyết pháp, thì mình đã thất bại ngay từ trước khi đi. Mình phải tới đó, phải nhìn, phải nghe, phải hiểu, phải quán sát để biết được cái nhu yếu, biết được những khổ đau, những bế tắc của người địa phương, thì mình mới có thể nói ra một bài pháp có hiệu năng phục vụ cho họ được. Cái đó gọi là quán cơ. Là học trò của Bụt, mình phải bắt chước phương pháp của Bụt, tức là quán cơ. Khi quán cơ thành công thì bài pháp của mình tuy giống như là nói riêng cho người đó, nhưng kỳ thực người nào ở trong nhóm cũng đều có cảm tưởng là thầy đang nói riêng cho mình. Cũng như hôm ở Devon bên Anh. Sau bài pháp, bà thân mẫu của Sư cô Chân Đức đã đến gặp tôi và nói: Thầy, you spoke direct to me this morning, thank you! Thân mẫu Sư cô Chân Đức nghĩ như vậy, và có thể nhiều người khác cũng nghĩ như vậy, nhưng họ không nói ra mà thôi. Đạo Bụt thường dùng chữ viên âm, và lời thuyết pháp của Bụt là viên âm, tức là tiếng tròn. Tiếng tròn là tiếng có thể phục vụ cho tất cả mọi ngưởi, người nào cũng thâu lượm được kết quả. Nói một bài pháp mà mọi người đều thâu lượm được kết quả, thì bài pháp đó có tính cách viên âm. Khi mình chưa giỏi thì cái vòng của mình chưa tròn lắm, nhưng nếu tiếp tục thực tập quán cơ thì ngày mai vòng tròn của mình sẽ khá hơn, và một ngày nào đó nó sẽ tròn được như tiếng nói của Bụt. Ngược lại nếu nói xong mà không ai thấy lợi lạc gì cả, nói chuyện gì xa vời, ngồi nghe buồn ngủ quá, thì bài nói đó không phải là viên âm, không có đánh động được vào nhu yếu của người nghe.

Trang 187, mở đầu cho phần kệ có các câu:

Pháp vương phá các cõi,
Hiện ra trong thế gian,
Theo tính của chúng sanh,
Dùng các cách nói pháp.

Pháp vương phá các cõi là một danh hiệu của Bụt, gọi là Phá Hữu Pháp Vương.

Bên Nhật có một cuốn sách bí mật lưu truyền trong giới thiền môn. Người viết cuốn đó ký tên là Phá Hữu Pháp Vương. Tên của cuốn sách là Tương tự Thiền, tức là thứ Thiền không phải là thiền thật, mà là thiền giả mạoMục đích của cuốn sách là để tố cáo thiền giả mạo. Người viết không để tên thật mà lại mượn danh hiệu của Bụt, và ký tên là Phá Hữu Pháp Vương. Sau này cuốn sách đó lọt vào tay của một học giả, ông bèn đem ra nhà in, để phát hành! Cuốn sách tiết lộ cho chúng ta những mánh mung của các thiền sư chưa phải là thiền sư thật, nhưng đang hành nghề thiền sư. Trong cuốn Tương lai Thiền học Việt-nam tôi có nói tới cuốn sách đó. Thỉnh thoảng có những vị thiền sư xuất hiện, rất tài giỏi, có khả năng đích thực của một vị thiền sư. Họ không căn cứ vào sách vở gì cả mà vẫn có thể dạy các thiền sinh, và đưa các thiền sinh đó từ chỗ tăm tối đến chỗ giác ngộ, bằng vào những cuộc tham vấn. Đối với thiền sinh, ông có thể tự đưa ra những câu hỏi từ trong tâm của ông. Nếu những thiền sinh đó trả lời được, tức là chứng tỏ có sự đặc ngộ, thì ông có thể thấy được rằng người thiền sinh này đã đạt tới một cái thấy, và ông chứng nhận cho thiền sinh đó là một người đã chứng ngộ, có khả năng đứng ra lập thiền viện để hóa độ cho các thiền sinh khác.

Tuy vậy, không phải thế hệ nào cũng có những thiền sinh giỏi. Có những người được truyền pháp, nhưng không có khả năng hành đạo, cho nên ông thầy phải trao lại cho người học trò những cái bí quyết. Cuốn Tương Tự Thiền ghi lại những bài đối thoại mẫu. Khi thầy hỏi câu như vầy, mà học trò trả lời được như vầy, thì thầy có thể cho người học trò đó đã chứng ngộVì vậy mà những thiền sinh không xuất sắc lắm đã sử dụng cuốn này như là một cuốn Cẩm nang của thầy giáo, và cuốn sách đó đã được trao truyền rất bí mật từ thế hệ này sang thế hệ khác ở Nhật bản. Trong cuốn đó, quí vị có thể tìm thấy hàng trăm bài vấn đáp, có sẵn để cho mình, và dù là thiền sư không đích thực, vẫn có thể làm thiền sư được. Mình có thể căn cứ vào những câu trả lời của thiền sinh, nếu tương tự như trong sách, mình có thể nhận cho họ đã đắc đạoVì vậy nếu vị thị giả nào dọn phòng cho thầy, mà thấy được cuốn đó thì sẽ có cơ hội để đắc pháp một cách rất là dễ dàng, tại vì do sách đó mà biết trước câu trả lời. Ví dụ như khi được hỏi: Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay? thì sách đó dạy là đừng trả lời gì hết, mà chỉ cần đưa bàn tay ra vỗ một cái, thì thế nào cũng được đắc pháp. Ở Phương Khê, tôi có cuốn sách đó và sách đã được in tại nhà in đàng hoàng. Có một điều buồn cười nữa là sách đó đã được dịch ra một thứ tiếng ngoại quốc, do một vị giáo sư người Do thái thực hiện và phát hành. Tuy vậy, ta nên nhớ rằng, mục đích của tác giả Phá Hữu Pháp Vươngtố cáo những thực tập hình thức của thiền giả mạo.

Hữu trong danh từ phá hữu này có nghĩa là tam hữu, tức là ba cõi. Chữ hữu này đúng là chữ hữu ở trong 12 nhân duyên. Xúc sinh ra thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, và thủ duyên hữu. Hữu tức là dính mắc, nó có dây có nhợ, nó kẹt vào, tạo thành một cõi khổ đau, gọi là hữu, BhẠva. Hữu đây tức là tù ngục, vì khi mình bị kẹt vào, bị dính mắc vào thì có khổ. Những lúc mình có giận, có buồn, có ái, có kẹt, gỡ không ra, thì đó là hữu. Vì vậydanh hiệu của Bụt là Phá Hữu Pháp Vương, tức là vị vua của các pháp, có năng lực phá được những cõi giam hãm mình, cho nên chữ hữu này có nghĩa là tam giới. Còn vô minh thì sống trong tam giới, còn bị ràng buộc thì mình sống trong tam giới, nhưng nếu phá được vô minh, phá được sự ràng buộc thì tuy đang đứng trong tam giớithực ra mình đã đứng ngoài tam giới rồi. Nói một cách khác tuy đang ở trong thế giới (Lokadhatu) nhưng kỳ thực mình đã vượt tới pháp giới (Dharmadhatu) rồi. 

Pháp vương phá các cõi,
Hiện ra trong thế gian,
Theo tính của chúng sanh,
Dùng các cách nói pháp.

Đức Phá Hữu Pháp Vương xuất hiện trong cõi này, nhận thức được căn cơ của tất cả chúng sanh, nên dùng đủ mọi cách mà nói pháp để độ cho họ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15705)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16398)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23625)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17515)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81358)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19614)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20263)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47471)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39239)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15849)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23261)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19296)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15219)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16827)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13098)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13162)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 49047)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23364)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19451)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17197)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32170)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27499)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14346)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14818)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18651)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16448)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13944)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17306)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19417)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28075)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14421)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16971)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22209)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23352)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 28056)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64901)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33273)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40225)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25164)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50284)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38594)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27368)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28626)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52284)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35931)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32941)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50895)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74959)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36186)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 49037)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31050)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33984)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28952)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58878)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46304)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43861)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43255)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45981)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48066)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant