Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Phẩm Chánh Tín

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8218)
4. Phẩm Chánh Tín

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Chánh Tín, thứ 4

Bấy giờ, đức Thế Tôn lại bảo đại Bồ Tát Hiền Hộ:
-Này Hiền Hộ! Nếu chư đại Bồ Tát vì cầu tam muội châu báu đó, thường phải phát tâm dũng mãnh tinh tấn, thì tự nhiên hay chóng nhập vào tam muội này.

Này Hiền Hộ! Ví như có người lên thuyền lớn ra biển cả, vì muốn chở về đầy thuyền những châu báu quý giá. Ðã vượt qua hết thảy chỗ hiểm nạn, lúc thuyền vừa sắp cập bến, đột nhiên thuyền bị thủng và các châu báu rơi chìm xuống nước. Lúc ấy, người trong xứ Diêm Phù Ðề đó la lớn thất thanh buồn khổ vô cùng, vì đã mất châu báu vô giá.

Này Hiền Hộ! Cũng như thế, nếu có trai hiền gái thảo nào, tai nghe pháp bảo tam muội như thế, mà không thể viết chép đọc tụng hành trì, và cũng không thể suy tư như pháp mà trụ, thì này Hiền Hộ, khi ấy tất cả chư thiên quỷ thần cũng la lớn thất thanh, lòng buồn rầu vô hạn, và nói lời rằng: “Chúng sanh đó thật đáng thương thay. Vì sao đối với Pháp bảo tam muội tối thắng của chư Phật, được tất cả chư Phật khen ngợi, được tất cả chư Phật ấn chứng, được tất cả chư Phật răn dạy, là công đức tối thượng của chư Phật, thành tựu đầy đủ không thiếu sót, mà Bồ Tát nghe rồi lẽ ra phải cần cầu tu học, nhưng ngược lại xa rời chẳng chịu viết chép, chẳng vui đọc tụng, chẳng hay thọ trì giải thích nghĩa lý, chẳng hay suy tư hành như chánh pháp! Chúng sanh phóng dật làm biếng này, trong tương lai sẽ gặp những tổn giảm lớn lao”.

Này Hiền Hộ! Sao gọi là chúng sanh bị tổn giảm? Vì chúng sanh đó nghe qua Pháp bảo tam muội đó, lại xa rời không thể biên chép đọc tụng thọ trì, không thể giải thích suy tư nghĩa lý, không thể trụ như pháp chuyên niệm tu hành, khiến suy diệt công đức, nên gọi là tổn giảm.
Này Hiền Hộ! Kẻ làm biếng này ghét chúng sanh. Nếu trong pháp này mà được lợi ích thì không thể nào có được. 

Lại nữa, này Hiền Hộ! Ví như có người đưa gỗ trầm hương đỏ đưa cho kẻ ngu, mà kẻ ngu đó vì ngu si nên nghĩ trầm hương là phẩn hôi thúi. Lúc đó, người chủ buôn trầm có trí bảo kẻ ngu:

-Nay đối với trầm hương ông chớ nên khởi tâm cho là hôi thúi. Vì sao? Ðây là trầm hương có mùi vị thơm nhất, mà ngược lãi sao ông cho là hôi thúi? Nếu không tin, trước hết ông hãy thử coi thử hôi thúi hay thơm, rồi dùng mắt trong sáng tự quán sát xem coi là trầm hương màu sắc trong sạch là nhỏ, là lớn, là lành, là xấu.

Tuy nghe người trí tán than những việc như thế, nhưng kẻ ngu lại chuyển tâm khởi oán giận, dùng tay bịt mũi vì không muốn ngửi, và dùng tay che mắt vì không muốn nhìn.

Cũng như thế, này Hiền Hộ! Ðời tương lai có tỳ kheo xấu ác, tức giận kinh này cũng như thế. Những kẻ ác đó chẳng biết tu tập tâm giới định huệ, ngu si vô trí giống như con cừu trắng ngu đần ngang bướng lẫn thẩn. Những kẻ ác đó lại bạc phước. Tuy được nghe kinh điển vi diệu, tam muội Chánh Niệm Chư Phật Hiện Tiền như thế, mà chẳng biên chép, không thể đọc tụng, không thể thọ trì, không thể suy tư, không thể tuyên dương nói rộng cho người khác nghe, lại không thể cởi mở hoan hỷ, thì làm sao tu hành y theo lời dạy? Nếu những kẻ ác đó hay như lời dạy mà hành trì thì không có lẽ nào như thế. Ngoài ra, tuy họ được nghe nhưng lại càng phỉ báng, hoàn toàn không có tín tâm chân thật. Tuy nghe nhiều lời mà không hiểu rõ, lại bảo rằng: “Nếu là pháp như thế thì chỉ là pháp hí luận, những chuyện thần thoại, lại là ngôn giáo lăng xăng, nên thật đáng quở trách. Những kẻ lường gạt thế gian tạo ra kinh này, há sao sánh bằng thánh giả A Nan, và chư vị tỳ kheo trong hiện tại tuyên thuyết các loại kinh này?” rồi trong những dịp khác, họ phát ngôn rằng: “Loại kinh này chẳng phải do Phật thuyết, mà là kẻ xấu tự tạo văn chương rồi vọng ngôn đề là kinh”.

Này Hiền Hộ! Ông nên biết rằng những kẻ ác đó đêm dài xa rời Pháp bảo vô thượng vi diệu, như kẻ ngu xem trầm hương vi diệu xong, lại che mắt bịt mũi không muốn ngửi nhìn.

Cũng như thế, này Hiền Hộ! Những kẻ ngu si đó vừa nghe qua kinh tam muội quý báu này, lại chẳng muốn biên chép, chẳng thích đọc tụng, chẳng nghĩ thọ trì, chẳng hay tuyên giảng, nên gọi là những kẻ chẳng có tâm gần gũi kinh điển, chẳng thích nghe giảng giải.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Ví như có người bán hạt châu ma ni. Có kẻ ngu vừa thấy hạt châu, liền hỏi rằng: 
-Này Nhân giả! Hạt châu này trị giá bao nhiêu?
Người chủ hạt châu đáp:
-Ông nên biết rằng hạt châu tinh thuần tối thắng này ở thế gian không có, không thể giả tạo, còn nói gì đến việc luận giá bao nhiêu!. Ðể cho vừa lòng, nay tôi sẽ nói sơ về lực dụng công năng oai đức của hạt châu này. Ông nếu muốn biết hạt châu ma ni này tỏa chiếu xa gần, thì nên lấy vàng thật để đầy trên mặt đất rồi so sánh.

Kẻ ngu nghe lời này xong, liền cười to, phỉ báng rằng hạt châu này đâu có giá trị gì.

Cũng vậy, này Hiền Hộ! Các tỳ kheo ác đời sau, tuy nghe tam muội quý báu thù thắng trong kinh này, nhưng chẳng có tín tâm, mà đa phần cười mỉa mai, lại thêm phỉ báng, cũng như thế. Hoặc có tỳ kheo tín căn thâm sâu, huệ căn lanh lợi, trong những đời quá khứ đã từng ở chỗ chư Phật, gần gũi hầu hạ nghe chánh pháp, như lời dạy mà hành trì, trồng các căn lành. Những người này khi nghe tam muội Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền, thì hay đọc tụng suy tư nghĩa lý, vì người nói rộng, hay làm nhiều lợi ích cho tất cả thế gian, tức là tuyên thuyết lưu bố cùng khắp, sanh tín tâm lớn, phát trí huệ lớn, thành tựu tâm thuần hậu chất trực, đầy đủ oai nghi, thường hành tàm quý, lo sợ nghiệp xấu, tu trì cấm giới, chẳng thọ các dục lạc, tin pháp thâm sâu, hay thường nghe thọ, đắc trí nhẫn thâm sâu, thường hành từ bi. Nhờ tín căn kiên cố, nên đắc được tam muội này, rồi đi khắp các xứ, vì người rộng nói giải thích nghĩa lý, thường phát nguyện như vầy: “Nay đối với tam muội Bồ Tát Niệm Phật Hiện Tiền sẽ lưu bố rộng khắp, để kinh được thường trụ ở thế gian”. 

Hoặc có chúng sanh căn lành ít ỏi, phước đức mỏng manh, đời quá khứ chưa từng gần gũi chư Phật, cúng dường hầu hạ nghe chánh pháp, chỉ vì ngã mạn che chướng, tâm ganh ghét dẫn dắt, lợi dưỡng che lấp, danh tiếng trói buộc, rộng hành phóng dật, chẳng trì giới lành, thường thích loạn tâm, chẳng tu thiền định, xa rời kinh giáo, chẳng cầu đa văn, chưa gặp thầy hiền, chỉ theo bạn xấu. Họ nghe qua tam muội này liền phỉ báng khinh bỉ, chẳng có một chút lòng tin, vì cho là kinh không thật, chí tánh ngoan cố ngu si, ý không khai mở, mà lại bảo rằng: “Kinh này chẳng phải do Phật thuyết, mà do các tỳ kheo độn cănthế gian, ngu si tà kiến tự viết văn chương, trao dồi văn vẻ. Nếu ở trong chúng nói như thế và dạy như thế, thì chúng sanh các ông, phải biết kinh điển này đây chẳng phải do Phật thuyết”.

Kẻ ngu đó chẳng biết gần gũi chư Phật Thế Tôn, chẳng trồng căn lành, chẳng tu cúng dường, quen gần bạn xấu, huân tập nhiều việc ác. Nên biết những kẻ đó xa rời pháp bảo vô thượng vi diệu, mãi mãi đánh mất pháp lợi tối thắng vi diệu.

Phật bảo Hiền Hộ:

-Ta lại nói cho ông nghe, nay trước tất cả thế gian, Phạm, Ma, Sa Môn, Bà La Môn, cùng hàng trời, người, A Tu La, và đại chúng. Khi Ta nói về tam muội vi diệu này, nếu có trai hiền gái thảo nào nghe rồi vui vẻ, đọc tụng thọ trì, niệm Phật tam muội, suy tư tin hiểu, quyết lấy đó làm chân thật, phát lời rằng: “Ðó gọi là lời thuyết chân thật của chư Phật”. Nên biết những người đó sẽ đạt được những phước báu không thể nghĩ bàn.

Này Hiền Hộ! Nếu lại có trai hiền gái thảo nào đem bao loại châu báu đầy cả ba ngàn đại thiên thế giới để cúng dường tất cả chư Phật, công đức cúng dường đó tuy rất rộng lớn, nhưng nếu so với công đức phước báo trì tụng kinh này thì trăm ngàn muôn phần không thể bằng một phần; cho đến dùng vô lượng vô biên a tăng kỳ phước đức để so sánh cũng không bằng được.
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên nên nói kệ rằng:

“Kẻ tà vạy ngu mê
Phóng dật, căn chẳng thuần
Bị bạn xấu tổn hoại
Chẳng có tâm chánh tín
Phá giới tạo các tội
Chấp sâu nơi ngã mạn
Họ lại nói kinh này
Chẳng phải do Phật thuyết
Loại kinh điển này đây
Chẳng do Pháp Vương dạy
Kẻ đó tự ý nói
Ta làm sao nói được
Nếu gặp đức Ðiều Ngự
Thế Tôn phóng hào quang
Ta sẽ nói rộng cho
Cũng hay thường truyền dạy
Người đó nơi kinh này
Nghe rồi sanh vui vẻ
Người này không nghi ngờ
Tin là lời Phật thuyết
Như có giới thanh tịnh
Cái nhìn hay hiểu rõ
Kính pháp tâm tôn trọng
Ta vì họ nói rõ
Nếu dùng ba ngàn báu
Cúng dường chư Như Lai
cầu đại Bồ Ðề
Phước kia không thể nói
Nếu có các tỳ kheo
Thuyết thiền định Phật khen
Người nghe sanh tín tâm
Phước này hơn kia nhiều”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31333)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26225)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27520)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27910)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26710)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31232)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20263)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22924)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30050)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21574)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20242)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22665)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20752)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30314)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28791)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34726)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44225)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35514)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22542)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21379)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20685)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24759)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37920)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19043)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19330)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21820)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20871)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29522)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35128)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28816)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32602)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26223)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43151)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34966)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43931)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37900)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21331)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43026)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49014)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39839)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53781)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36825)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40815)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49739)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47310)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27698)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27026)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27233)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24071)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20847)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34319)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22466)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25121)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25847)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22953)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22473)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21761)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23321)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21187)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant