Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Phẩm Hiền Hộ Xưng Tán Công Ðức

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8173)
8. Phẩm Hiền Hộ Xưng Tán Công Ðức

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Hiền Hộ Xưng Tán Công Ðức, thứ 8

Lúc ấy, Bồ Tát Hiền Hộ cùng những người Bảo Ðức Ly Xa, trưởng giả Thiện Thương Chủ, con của cư sĩ Già Ha Ngập Ða, Na La Ðạt Ða Ma Nạp, trưởng giả Thủy Thiên cùng năm trăm quyến thuộc, nghe lời Phật dạy xong, đều vui mừng khấp khởi, và do tâm mến thích pháp, nên tự thân mỗi người liền đem năm trăm y phục cao sang và dâng nhiều phẩm vật lên cúng dường đức Thế Tôn. Do tâm mến pháp, nên tự mỗi người phụng thừa đức Như Lai.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ngài A Nan rằng:
-Bồ Tát Hiền Hộ sẽ vì năm trăm đệ tử mà làm bậc thầy thuyết các pháp thiết yếu, giáo hóa an ủi, khiến họ vui mừng. Do vui mừng nên bọn họ sẽ có tâm tùy thuận, có tâm chân thật, có tâm thanh tịnh, có tâm xa rời dục lạc, diệt trừ các phiền não, không còn bị các triền cái che đậy trói buộc.

Lúc ấy, năm trăm người nhất tâm chắp tay, cung kính đảnh lễ rồi ngồi sang một bên.

Khi đó, Bồ Tát Hiền Hộ bèn bạch Phật rằng:
-Bạch đức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát đầy đủ pháp gì mà hay đắc được tam muội Niệm Phật này?

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo:
-Này Hiền Hộ! Ðại Bồ Tát đầy đủ bốn pháp thì đắc được tam muội này. Bốn pháp đó là gì? 

Thứ nhất là chẳng chấp vào lời nói của tất cả ngoại đạo

Thứ hai là chẳng thích tất cả việc ái dục

Thứ ba là thường không xa rời công đức đầu đà

Thứ tư là thường chán chường ba cõi các chỗ sanh ra.

Này Hiền Hộ! Ðó là đại Bồ Tát đầy đủ bốn pháp thì đắc được tam muội này.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu có trai hiền gái thảo đọc tụng thọ trì tam muội này, hoặc có lúc lại hay vì người khác mà giải thích, thì trước mắt sẽ được năm loại công đức

Thứ nhất, tất cả chất độc không thể hại được.

Thứ hai, tất cả súng ống không thể giết hại được.

Thứ ba, không bị chết đuối.

Thứ tư, không bị lửa thiêu.

Thứ năm, không bị vua quan tàn ác bắt bớ hãm hại.

Vì sao? Vì lực tâm từ của tam muội này.

Này Hiền Hộ! Nếu trai hiền gái thảo nào, lúc nhất tâm cần cầu tam muội này, đọc tụng thọ trì tam muội này, suy tư tu tập tam muội này, giải thích cho người khác về tam muội này, nếu có chất độc, binh đao, nước lửa, vua quan ác độc làm hại, thì không thể có việc đó.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Giả sử lửa cháy thế gian trong kiếp hoại, đốt cháy hừng hực cả trời đất, nếu trai hiền gái thảo nào thọ trì tam muội này, thì dù có sống trong đại kiếp lửa hoại đó, nhờ oai thần của tam muội này mà lửa sẽ tắt.

Này Hiền Hộ! Giống như nước trong bình nhỏ hay dập tắt lửa nhỏ, cũng vậy dù các người trai lành gái thảo nào trì kinh này mà bị nạn lửa, thì nhờ lực tam muội này mà sẽ dập tắt được ngọn lửa lớn đó. Nếu không thể dập tắt thì không có chuyện đó.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu lúc người trai hiền gái thảo nào đang thọ trì kinh điển này mà bị vua quan ác ôn hãm hại, hoặc gặp nạn binh đao, gặp nạn sư tử, gặp nạn cọp sói, gặp nạn rắn độc gây chướng ngại, thì không có lẽ đó. 
Lại nữa, lúc họ đang tu hành kinh điển này, nếu quỷ Dạ Xoa, La Sát, Ngạ Quỷ, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xá, cho đến tất cả loài phi nhân hay làm sự chướng ngại, thì cũng không có việc đó.

Lại nữa, nếu lúc người trai hiền gái thảo đang đọc tụng kinh điển, đang suy tư, đang giải giải cho người khác, đang nhập tam muội, đang hành phạm hạnh, mà bị mất y bát, cho đến gặp nhiều chướng ngại, thì không thể có điều đó, chỉ trừ oan khiên tiền kiếp không thể chuyển được.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu người trai hiền gái thảo nào thọ trì kinh điển tam muội này, bị đui mù, bị câm điếc, thân tâm bị ưu hoạn, lại gặp bao tai ương hoạn nạn khác, cho đến đe dọa mạng sống, khó hành phạm hạnh, thì cũng không thể có điều đó.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu người trai hiền gái thảo nào nghe được, thấy biết được kinh này đầy đủ, mà không gặp Phật, phỉ báng chánh pháp, phá tăng hòa hợp, phản bội Phật Bồ Ðề, thì không thể có được.

Hiền Hộ ông nên biết người trai hiền gái thảo trì kinh này, không bị những sự việc trên làm chướng ngại, chỉ trừ oan khiên tiền kiếp không thể chuyển được.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo nào thọ trì kinh điển này, thì thường được tất cả chư Thiên, tất cả loài rồng, tất cả Dạ Xoa, tất cả Càn Thát Bà, tất cả A Tu La, tất cả Ca Lầu La, tất cả Khẩn Na La, tất cả Ma Hầu La Già, tất cả hàng phi nhân, tất cả Tứ Ðại Thiên Vương, tất cả Thiên Vương Ðế Thích, tất cả đại Phạm Thiên Vương, như thế cho đến tất cả chư Phật khen ngợi.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo nào thọ trì kinh điển này, thì thường được tất cả chư Thiên, cho đến tất cả loài rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, và phi nhân, Tứ Ðại Thiên Vương, cho đến Đại Phạm Thiên Vương cung kính. Họ cũng được tất cả chư Bồ Tát, cho đến tất cả chư Phật thương nghĩ đến.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo nhờ nương vào thần lực của kinh điển này, nên thường được tất cả chư Thiên, rồng, Dạ Xoa, Cản Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, cùng phi nhân, Tứ Thiên Vương, Ðế Thích Thiên Vương, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương bảo vệ hộ trì. Tất cả chư Bồ Tát cho đến tất cả chư Phật đều che chở gia hộ cho tất cả những ai đang hành trì pháp này trong mười phương vô lượng a tăng kỳ cõi.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo này nhờ nương vào thần lực của kinh điển này mà tất cả hàng trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, Tứ Thiên Vương, Ðế Thích Thiên Vương, Ðao Lợi Thiên Vương, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương đều thương tưởng muốn nhìn. Tất cả chư Bồ Tát, cho đến tất cả chư Phật cũng đều muốn nhìn.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo này nhờ nương vào oai lực của kinh này mà tất cả chư Thiên, rồng, Dạ Xoa, Cản Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, Tứ Thiên Vương, Ðế Thích Thiên Vương, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương đều muốn tới gặp. Tất cả chư Bồ Tát, cho đến tất cả chư Phật không ngày đêm nào mà chẳng hiện tướng báo mộng, tự xưng danh hiệu, xoa đảnh an ủi, khen ngợi, khuyên nhủ các người trai lành gái thảo này.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo này tuy chưa nghe các kinh điển khác, nhưng nhờ nương vào lực oai thần của tam muội này, tự nhiên có người đến chỗ của họ, cho tới hiện trong giấc mộngthuyết pháp cho họ nghe, khiến họ ghi nhớ không quên mất.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Ta tạm thời nói về công đức mà các người trai lành gái thảo đó thọ trì kinh điển tam muội vi diệu đạt được, thì dù trãi qua muôn số kiếp cũng không thể hết. Trí huệ biện tài của Ta tuy nhiều vô cùng nhưng cũng không thể nói hết, huống gì người trai lành gái thảo nghe tam muội này rồi, y theo lời dạy mà tu hành, và trụ y như chánh pháp.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

“Nếu ai hay giải thích kinh điển
Tam muội chư Phật đại tịch thắng
Dù nay Ta có nói công đức
Như ông nhặt lấy một bụm cát
Nếu hay vì người thuyết tam muội
Chẳng bị chết chìm, lửa chẳng thiêu
Dao gậy độc dược không thể hại
Vua quan ác ôn không thể hại
Nếu hay đọc tụng kinh tam muội
Chẳng sợ tất cả việc khủng khiếp
Như loài rắn độc bọ cạp lớn
Nhờ oai lực kinh diệt hết cả
Nếu có thọ trì kinh điển này
Chẳng sợ tất cả các ngườì ác
Dạ Xoa, La Sát, cùng loài rồng
Chúng quyết không thể hại họ được
Nếu ai thường thủ hộ cúng dường
Nương nơi Lan Nhã làm bạn đạo
Sư tử hổ lang các cầm thú
Tê giác cọp sói cùng dã can
Nếu hay hộ trì tam muội này
Nhờ oai lực kinh, chúng không hại
Xa rời tất cả kẻ tâm xấu
Cùng loài Dạ Xoa hút tinh khí
Nếu hay giải thích tam muội này
Họ không bịnh tật và tai chướng
Sanh ra quả lành không đui mù
Lời nói thanh trong có hùng biện
Nếu ai chứng biết thiền thâm tịch
Thân thể tráng kiện không bịnh hoạn
Suốt đời dứt tuyệt các sắc xấu
Khi chết chẳng sợ đường địa ngục
Nếu ai hay đọc kinh tam muội
Chư thiên loài rồng thường thủ hộ
Dạ Xoa, La Sát cùng oán cừu
Tuy chúng đến hại, chẳng khiếp sợ
Nếu ai giải thích kinh cho người
Trời, rồng, Dạ Xoa đều vui mừng
Chư Thiên ngày đêm thường ca ngợi
Tất cả Phật thương đệ tử này
Nếu ai vì người thường chuyển đọc
Trong tất cả pháp không có nghi
Gương mặt họ không ai sánh bằng
Há lại thối thất Bồ Ðề sao?
Nếu hay chuyển dạy các chúng sanh
Chợt gặp vua ác, nhân dân loạn
Lúc năm hạn hán gạo quý giá
Quyết không khốn khổ hay đói rách
Nếu ai giải thích tam muội này
Tất cả công đức không nghĩ bàn
Giả như ma quấy các chúng sanh
Không thể động họ một lông tóc
Ta trước nói về người trì kinh
Các họa khủng bố cùng phiền não
Quyết không thể gia hại được họ
Chỉ trừ tai ương định nghiệp xưa
Nếu có hộ trì nơi kinh này
Tức sẽ làm trưởng tử của Ta
Ta đã khen ngợi những người này
Trong đời tương lai cũng như thế
Nếu hay hộ trì kinh pháp này
Sẽ tự thường phát tâm vui vẻ
Ðồng cùng tuyên dương chớ xả bỏ
Nay Ta vì ông mà nói rõ”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49718)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34616)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43909)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57037)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47544)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38465)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52921)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36591)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32233)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40447)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43469)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31439)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46698)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36174)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28685)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29217)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31879)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28801)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33350)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29116)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60969)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39724)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26651)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29644)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37354)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40075)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26827)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42642)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37272)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28278)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28891)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26388)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27156)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26179)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34611)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27794)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30458)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33269)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28551)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30058)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25476)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21837)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51280)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26710)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28610)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27689)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24344)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27452)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31917)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30175)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27687)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35424)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27433)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30000)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31758)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23004)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24172)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23010)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant