Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Phẩm Hiền Hộ Xưng Tán Công Ðức

30 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8050)
8. Phẩm Hiền Hộ Xưng Tán Công Ðức

KINH ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẠI TẬP, BỒ TÁT HIỀN HỘ
Ðời nhà Tùy, Tam Tạng Pháp Sư Xà Na Quật Ða của xứ Ấn Ðộ, Hán dịch
Tỳ kheo Thích Hằng Ðạt, Việt dịch

Phẩm Hiền Hộ Xưng Tán Công Ðức, thứ 8

Lúc ấy, Bồ Tát Hiền Hộ cùng những người Bảo Ðức Ly Xa, trưởng giả Thiện Thương Chủ, con của cư sĩ Già Ha Ngập Ða, Na La Ðạt Ða Ma Nạp, trưởng giả Thủy Thiên cùng năm trăm quyến thuộc, nghe lời Phật dạy xong, đều vui mừng khấp khởi, và do tâm mến thích pháp, nên tự thân mỗi người liền đem năm trăm y phục cao sang và dâng nhiều phẩm vật lên cúng dường đức Thế Tôn. Do tâm mến pháp, nên tự mỗi người phụng thừa đức Như Lai.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo ngài A Nan rằng:
-Bồ Tát Hiền Hộ sẽ vì năm trăm đệ tử mà làm bậc thầy thuyết các pháp thiết yếu, giáo hóa an ủi, khiến họ vui mừng. Do vui mừng nên bọn họ sẽ có tâm tùy thuận, có tâm chân thật, có tâm thanh tịnh, có tâm xa rời dục lạc, diệt trừ các phiền não, không còn bị các triền cái che đậy trói buộc.

Lúc ấy, năm trăm người nhất tâm chắp tay, cung kính đảnh lễ rồi ngồi sang một bên.

Khi đó, Bồ Tát Hiền Hộ bèn bạch Phật rằng:
-Bạch đức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát đầy đủ pháp gì mà hay đắc được tam muội Niệm Phật này?

Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo:
-Này Hiền Hộ! Ðại Bồ Tát đầy đủ bốn pháp thì đắc được tam muội này. Bốn pháp đó là gì? 

Thứ nhất là chẳng chấp vào lời nói của tất cả ngoại đạo

Thứ hai là chẳng thích tất cả việc ái dục

Thứ ba là thường không xa rời công đức đầu đà

Thứ tư là thường chán chường ba cõi các chỗ sanh ra.

Này Hiền Hộ! Ðó là đại Bồ Tát đầy đủ bốn pháp thì đắc được tam muội này.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu có trai hiền gái thảo đọc tụng thọ trì tam muội này, hoặc có lúc lại hay vì người khác mà giải thích, thì trước mắt sẽ được năm loại công đức

Thứ nhất, tất cả chất độc không thể hại được.

Thứ hai, tất cả súng ống không thể giết hại được.

Thứ ba, không bị chết đuối.

Thứ tư, không bị lửa thiêu.

Thứ năm, không bị vua quan tàn ác bắt bớ hãm hại.

Vì sao? Vì lực tâm từ của tam muội này.

Này Hiền Hộ! Nếu trai hiền gái thảo nào, lúc nhất tâm cần cầu tam muội này, đọc tụng thọ trì tam muội này, suy tư tu tập tam muội này, giải thích cho người khác về tam muội này, nếu có chất độc, binh đao, nước lửa, vua quan ác độc làm hại, thì không thể có việc đó.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Giả sử lửa cháy thế gian trong kiếp hoại, đốt cháy hừng hực cả trời đất, nếu trai hiền gái thảo nào thọ trì tam muội này, thì dù có sống trong đại kiếp lửa hoại đó, nhờ oai thần của tam muội này mà lửa sẽ tắt.

Này Hiền Hộ! Giống như nước trong bình nhỏ hay dập tắt lửa nhỏ, cũng vậy dù các người trai lành gái thảo nào trì kinh này mà bị nạn lửa, thì nhờ lực tam muội này mà sẽ dập tắt được ngọn lửa lớn đó. Nếu không thể dập tắt thì không có chuyện đó.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu lúc người trai hiền gái thảo nào đang thọ trì kinh điển này mà bị vua quan ác ôn hãm hại, hoặc gặp nạn binh đao, gặp nạn sư tử, gặp nạn cọp sói, gặp nạn rắn độc gây chướng ngại, thì không có lẽ đó. 
Lại nữa, lúc họ đang tu hành kinh điển này, nếu quỷ Dạ Xoa, La Sát, Ngạ Quỷ, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Xá, cho đến tất cả loài phi nhân hay làm sự chướng ngại, thì cũng không có việc đó.

Lại nữa, nếu lúc người trai hiền gái thảo đang đọc tụng kinh điển, đang suy tư, đang giải giải cho người khác, đang nhập tam muội, đang hành phạm hạnh, mà bị mất y bát, cho đến gặp nhiều chướng ngại, thì không thể có điều đó, chỉ trừ oan khiên tiền kiếp không thể chuyển được.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu người trai hiền gái thảo nào thọ trì kinh điển tam muội này, bị đui mù, bị câm điếc, thân tâm bị ưu hoạn, lại gặp bao tai ương hoạn nạn khác, cho đến đe dọa mạng sống, khó hành phạm hạnh, thì cũng không thể có điều đó.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu người trai hiền gái thảo nào nghe được, thấy biết được kinh này đầy đủ, mà không gặp Phật, phỉ báng chánh pháp, phá tăng hòa hợp, phản bội Phật Bồ Ðề, thì không thể có được.

Hiền Hộ ông nên biết người trai hiền gái thảo trì kinh này, không bị những sự việc trên làm chướng ngại, chỉ trừ oan khiên tiền kiếp không thể chuyển được.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo nào thọ trì kinh điển này, thì thường được tất cả chư Thiên, tất cả loài rồng, tất cả Dạ Xoa, tất cả Càn Thát Bà, tất cả A Tu La, tất cả Ca Lầu La, tất cả Khẩn Na La, tất cả Ma Hầu La Già, tất cả hàng phi nhân, tất cả Tứ Ðại Thiên Vương, tất cả Thiên Vương Ðế Thích, tất cả đại Phạm Thiên Vương, như thế cho đến tất cả chư Phật khen ngợi.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo nào thọ trì kinh điển này, thì thường được tất cả chư Thiên, cho đến tất cả loài rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, và phi nhân, Tứ Ðại Thiên Vương, cho đến Đại Phạm Thiên Vương cung kính. Họ cũng được tất cả chư Bồ Tát, cho đến tất cả chư Phật thương nghĩ đến.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo nhờ nương vào thần lực của kinh điển này, nên thường được tất cả chư Thiên, rồng, Dạ Xoa, Cản Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, người, cùng phi nhân, Tứ Thiên Vương, Ðế Thích Thiên Vương, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương bảo vệ hộ trì. Tất cả chư Bồ Tát cho đến tất cả chư Phật đều che chở gia hộ cho tất cả những ai đang hành trì pháp này trong mười phương vô lượng a tăng kỳ cõi.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo này nhờ nương vào thần lực của kinh điển này mà tất cả hàng trời, rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, Tứ Thiên Vương, Ðế Thích Thiên Vương, Ðao Lợi Thiên Vương, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương đều thương tưởng muốn nhìn. Tất cả chư Bồ Tát, cho đến tất cả chư Phật cũng đều muốn nhìn.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo này nhờ nương vào oai lực của kinh này mà tất cả chư Thiên, rồng, Dạ Xoa, Cản Thát Bà, A Tu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân, phi nhân, Tứ Thiên Vương, Ðế Thích Thiên Vương, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương đều muốn tới gặp. Tất cả chư Bồ Tát, cho đến tất cả chư Phật không ngày đêm nào mà chẳng hiện tướng báo mộng, tự xưng danh hiệu, xoa đảnh an ủi, khen ngợi, khuyên nhủ các người trai lành gái thảo này.
Lại nữa, này Hiền Hộ! Người trai hiền gái thảo này tuy chưa nghe các kinh điển khác, nhưng nhờ nương vào lực oai thần của tam muội này, tự nhiên có người đến chỗ của họ, cho tới hiện trong giấc mộngthuyết pháp cho họ nghe, khiến họ ghi nhớ không quên mất.

Lại nữa, này Hiền Hộ! Nếu Ta tạm thời nói về công đức mà các người trai lành gái thảo đó thọ trì kinh điển tam muội vi diệu đạt được, thì dù trãi qua muôn số kiếp cũng không thể hết. Trí huệ biện tài của Ta tuy nhiều vô cùng nhưng cũng không thể nói hết, huống gì người trai lành gái thảo nghe tam muội này rồi, y theo lời dạy mà tu hành, và trụ y như chánh pháp.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa trên nên thuyết kệ rằng:

“Nếu ai hay giải thích kinh điển
Tam muội chư Phật đại tịch thắng
Dù nay Ta có nói công đức
Như ông nhặt lấy một bụm cát
Nếu hay vì người thuyết tam muội
Chẳng bị chết chìm, lửa chẳng thiêu
Dao gậy độc dược không thể hại
Vua quan ác ôn không thể hại
Nếu hay đọc tụng kinh tam muội
Chẳng sợ tất cả việc khủng khiếp
Như loài rắn độc bọ cạp lớn
Nhờ oai lực kinh diệt hết cả
Nếu có thọ trì kinh điển này
Chẳng sợ tất cả các ngườì ác
Dạ Xoa, La Sát, cùng loài rồng
Chúng quyết không thể hại họ được
Nếu ai thường thủ hộ cúng dường
Nương nơi Lan Nhã làm bạn đạo
Sư tử hổ lang các cầm thú
Tê giác cọp sói cùng dã can
Nếu hay hộ trì tam muội này
Nhờ oai lực kinh, chúng không hại
Xa rời tất cả kẻ tâm xấu
Cùng loài Dạ Xoa hút tinh khí
Nếu hay giải thích tam muội này
Họ không bịnh tật và tai chướng
Sanh ra quả lành không đui mù
Lời nói thanh trong có hùng biện
Nếu ai chứng biết thiền thâm tịch
Thân thể tráng kiện không bịnh hoạn
Suốt đời dứt tuyệt các sắc xấu
Khi chết chẳng sợ đường địa ngục
Nếu ai hay đọc kinh tam muội
Chư thiên loài rồng thường thủ hộ
Dạ Xoa, La Sát cùng oán cừu
Tuy chúng đến hại, chẳng khiếp sợ
Nếu ai giải thích kinh cho người
Trời, rồng, Dạ Xoa đều vui mừng
Chư Thiên ngày đêm thường ca ngợi
Tất cả Phật thương đệ tử này
Nếu ai vì người thường chuyển đọc
Trong tất cả pháp không có nghi
Gương mặt họ không ai sánh bằng
Há lại thối thất Bồ Ðề sao?
Nếu hay chuyển dạy các chúng sanh
Chợt gặp vua ác, nhân dân loạn
Lúc năm hạn hán gạo quý giá
Quyết không khốn khổ hay đói rách
Nếu ai giải thích tam muội này
Tất cả công đức không nghĩ bàn
Giả như ma quấy các chúng sanh
Không thể động họ một lông tóc
Ta trước nói về người trì kinh
Các họa khủng bố cùng phiền não
Quyết không thể gia hại được họ
Chỉ trừ tai ương định nghiệp xưa
Nếu có hộ trì nơi kinh này
Tức sẽ làm trưởng tử của Ta
Ta đã khen ngợi những người này
Trong đời tương lai cũng như thế
Nếu hay hộ trì kinh pháp này
Sẽ tự thường phát tâm vui vẻ
Ðồng cùng tuyên dương chớ xả bỏ
Nay Ta vì ông mà nói rõ”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 32572)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6434)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11091)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30224)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30308)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7883)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12029)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12154)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11492)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12569)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34440)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9721)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52110)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10620)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10381)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10584)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10338)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 12972)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16074)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21641)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9516)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7003)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10295)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12518)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12647)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16111)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16393)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13731)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16403)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11953)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13693)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14227)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9116)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11663)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11185)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16125)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14258)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16102)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12612)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11934)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11683)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11401)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 13927)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11907)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12510)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14853)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11878)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13022)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14381)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20530)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13099)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10852)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20561)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14227)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20149)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17462)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 13849)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31738)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11905)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant