KINH ÐẠI BÁT
NIẾT BÀN
Dịch
Từ Hán Sang Việt: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Tịnh
Xá Minh Ðăng Quang, Hoa Kỳ Xuất Bản 1990
XXVI
PHẨM
DI GIÁO THỨ HAI MƯƠI SÁU
Lúc
bấy giờ Đức Phật bảo An Nan và đại chúng : Sau khi ta diệt
độ, hàng tứ chúng phải siêng hộ trì kinh Đại Bát Niết
Bàn của ta. Trong vô lượng vô số kiếp ta tu tập pháp Đại
Niết Bàn khó đặng nầy, nay đã giải thuyết rõ ràng cho
đại chúng.
Các
người nên biết pháp Đại Niết Bàn nầy là bảo tạng Kim
Cang thường , lạc, ngã, tịnh hoàn toàn viên mãn của tất
cả chư Phật. Tất cả chư Phật đều ở nơi pháp Đại Niết
Bàn nầy mà nhập Niết Bàn. Pháp nầy là pháp tối hậu rốt
ráo chí lý cùng tột không thiếu sót. Chư Phật đều phóng
xả thân mạng nơi đây, do đó nên gọi là Đại Niết Bàn.
Đại
chúng muốn đặng chơn thật báo ân Phật, mau chứng Bồ Đề,
được chư Phật rờ đầu, đời đời sanh ra chẳng mất chánh
niệm, thập phương chư Phật thường hiện trước mình ngày
đêm giữ gìn làm cho tất cả mọi người được pháp xuất
thế, thời phải siêng năng tu tập kinh Đại Niết Bàn nầy.
Phật
bảo A Nan : Lúc ta chưa thành Phật thị hiện vào trong pháp
ngoại đạo của Uất Đầu Lam Phất, tu học tứ thiền bát
định.
Từ
khi ta thành Phật đến nay bác bỏ những pháp ấy khuyến dụ
lần lần các phái ngoại đạo, cuối cùng đến ông Tu Bạt
Đà La, cho họ đều vào Phật Đạo.
Đức
Như Lai dùng đuốc đại trí đốt tràng tà kiến, như đem
lá cỏ khô ném vào trong ngọn lửa lớn.
Nầy
A Nan ! Nay những người dòng Thích Ca ta rất lo nghĩ đến họ.
Sau khi ta nhập Niết Bàn, ông phải siêng năng đem điều lành
dạy răn, hàng quyến thuộc của ta, hết lòng dạy dỗ cho
họ được diệp pháp. Chớ để họ phóng dật tán tâm chơi
bời hoặc theo tà pháp.
Người
chưa thoát khỏi sự thống khổtrong ba cõi phải sớm cầu
giải thoát. Phải lo sợ chốn ngũ trược ái dục nầy, một
khi mất thân người rất khó được lại, trọn đời phải
thường soi xét. Khó lấy tình để cầu thoát khỏi quỉ vô
thường.
Phải
thương xót chúng sanh, chớ giết hại dầu là côn trùng nhỏ
nhít.
Thân
nghiệp thanh tịnh thường sanh cõi tốt đẹp. Khẩu nghiệp
thanh tịnh xa lìa những lỗi ác . Chớ ăn thịt, chớ uống
rượu.
Điều
phục con rắn tâm cho nó vào đạo quả.
Phải
suy nghĩ kỹ nghiệp nhơn thiện ác cảm báo tốt xấu. Nhơn
quả trong ba đời tuần hoàn chẳng mất, như bóng theo hình.
Đời nầy luống qua về sau ăn năn không kịp.
Giờ
Niết Bàn đã đến, ta tóm tắt dạy bảo như vậy.
A Nan
nghe lời Phật dạy, thân thể rung tâm động, buồn khóc nghẹn
ngào, mê muội té xuống trước mặt Phật như người chết.
Lúc
đó ngài A Nâu La Đà an ủi A Nan rằng : “ Đâu nên quá sầu
khổ như vậy ! Đã đến giờ Đức Như Lai nhập Niết Bàn,
ngày nay dầu có Phật, sáng mai thời đã không. Ông y theo lời
tôi để thưa hỏi Đức Như Lai bốn điều.
_ Sau
khi Phật nhập Niết Bàn Lục Quần Tỳ Kheo làm việc ô tha
gia, cùng Xa Nặc ác tánh, các Tỳ Kheo làm thế nào để cùng
họ cộng trụ và chỉ dạy họ ?
Đức
Như Lai còn thời dùng Phật làm Thầy, Đức Như Lai đã diệt
độ rồi lấy gì để làm Thầy ?
_ Lúc
Phật còn nương nơi Phật mà trụ, Như Lai đã diệt độ nương
gì để trụ ?
_ Sau
khi Phật diệt độ, lúc kết tập pháp tạng, đầu các kinh
phải để những lời gì ?
A Nan
như ở trong mộng nghe ngài A Nâu Lâu Đà khuyên bảo hỏi Phật
bốn điều. Lần lần được tỉnh ngộ chẳng xiết buồn
thảm, A Nan đem bốn điều trên hỏi Phật.
Đức
Như Lai bảo A Nan : “ Sao lại quá buồn khổ như vậy ! Chư
Phật thuyết pháp giáo hóa việc làm đã xong, theo phải về
nơi đây.
Lành
thay ! Lành thay ! Bốn điều ông vừa hỏi, là lời hỏi tối
hậu, có lợi ích lớn cho tất cả thế gian. Các ông lóng
nghe và khéo suy nghĩ ghi nhớ.
Sau
khi Phật nhập Niết Bàn, Tỳ Kheo Xa Nặc tâm tánh sẽ lần
lần điều phục nhu hòa bỏ ác tánh cũ.
Nầy
A Nan ! Ông Nan Đà trước kia rất nặng ái dục, tánh rất
xấu ác, Đức Như Lai dùng thiện phương tiện chỉ dạy cho
ông ấy được lợi ích vui mừng. Phật rõ biết căn tánh
của ông ấy, dùng huệ bát nhã mà giảng thuyết mười hai
nhơn duyên : Chính là vô minh duyên hành, hành duyên thức, nhẫn
đến lão tử ưu bi khổ não, đều là rừng bụi vô minh yêu
ghét, tất cả hành khổ đầy tràn trong ba cõi, chạy khắp
trong lục đạo. Cội gốc sự khổ từ vô minh khởi lên. Dùng
huệ bát nhã hiển bày tánh tịnh, quán sát kỹ cội gốc thời
dứt được tội lỗi trong ba cõi. Vì cội gốc vô minh dứt
nên vô minh dứt, vô minh dứt thời hành dứt, nhẫn đến lão
tử ưu bi khổ não đều dứt.
Lúc
được quán niệm nầy nhiếp tâm đứng dừng thời được
nhập Tam Muội, do sức Tam Muội được nhập sơ thiền lần
lượt nhập tứ thiền không rời chánh niệm luôn tu tập như
vậy, rồi sau tự sẽ được chứng thượng quả thoát khỏi
khổ trong ba cõi Nan Đà Tỳ Kheo, tin sâu lời dạy của Phật,
siêng năng tu tập trong một ít lâu được chứng quả A La
Hán.
Nầy
A Nan ! Sau khi ta nhập Niết Bàn, các ông nên y theo giáo pháp
chánh quán của ta mà chỉ dạy cho Lục Quần cùng Xa Nặc,
hết lòng nương theo chánh pháp thanh tịnh nầy, tự sẽ được
chứng thượng quả.
Nầy
A Nan ! Phải biết rằng đều do nơi vô minh mà tăng trưởng
cây sanh tử trong ba cõi, nên mãi trôi chìm trong ái hà, chịu
khổ mãi dưới vực tối tăm, vòng quanh cột sanh tử. Sáu
thức là nhánh, vọng niệm là gốc, lượn sóng vô minh xúc
khiến tâm thức dạo chơi theo lục trần, sanh mầm các sự
khổ não. Vô minh nó tự tại như vua, không ai chế ngự được.
Do đây nên ta nói ông chủ vô minh niệm niệm làm hại, chúng
sanh chẳng hay biết, mãi luân chuyển trong sanh tử.
Nầy
A Nan ! Tất cả chúng sanh vì vô minh nầy mà khởi những tham
ái, bị ngã kiến che đậy, tám muôn bốn ngàn phiền
não sai sử thân họ, làm cho thân tâm họ tan vỡ không được
tự tại.
Nầy
A Nan ! Nếu vô minh dứt thời ba cõi đều hết, nên gọi là
người xuất thế.
Nầy
A Nan ! Nếu có thể quán sát kỹ mười hai nhơn duyên rốt
ráo không có ngã, sâu vào nơi bổn tánh thanh tịnh, thời có
thể xa lìa ngọn lửa lớn ba cõi.
Nầy
A Nan ! Đức Như Lai là đấng chơn ngữ nói lời thành thật,
đây là lời phó chúc tối hậu, các ông phải y theo tu hành.
Nầy
A Nan ! Ông hỏi sau khi Phật diệt độ lấy gì làm Thầy ?â
Nên biết giới Ba La Đề Mộc Xoa là Đại Sư của các ông.
Nương theo đó tu hành thời có thể được định huệ xuất
thế.
Nầy
A Nan ! Ông hỏi sau khi Phật nhập Niết Bàn nương gì để
trụ ? Phải nương pháp tứ niệm xứ mà trụ : Quán sát
tánh tướng của thân đồng như hư không gọi là thân niệm
xứ, quán sát sự cảm thọ chẳng ở trong, chẳng ở ngoài,
chẳng ở chặn giữa, gọi là thọ niệm xứ, quán sát tâm
chỉ có danh tự tánh danh tự rời rạc gọi là tâm niệm xứ,
quán sát pháp thiện chẳng thể được pháp bất thiện cũng
chẳng thể được gọi là pháp niệm xứ. Tất cả người
tu hành phải nương theo pháp tứ niệm xứ nầy mà trụ.
Nầy
A Nan ! Ông hỏi sau khi Như Lai diệt độ lúc kết tập pháp
tạng, đầu tất cả kinh để những lời gì ?
Nầy
A Nan ! Sau khi Như Lai diệt độ lúc kết tập pháp tạng đầu
tất cả kinh nên để như vầy : “ Như thị ngã văn nhứt
thời Phật trụ mỗ phương mỗ xứ, cùng hàng tứ chúng mà
nói kinh nầy “.
A Nan
lại bạch Phật : Lúc Phật ở đời, hoặc sau khi Phật nhập
Niết Bàn, có tín tâm đàn việt đem vàng bạc bảy báu cùng
tất cả đồ cần dùng dưng cúng cho Như Lai thời phải xử
trí thê nào ?
Phật
nói : Lúc Phật còn, những vật cúng dường Phật, thời chúng
Tăng nên biết. Sau khi Phật diệt độ những vật cúng dường
Phật, thời nên dùng tạo tượng Phật và tạo y của Phật,
phan lọng bảy báu, sắm các thứ hương dầu bông để cúng
dường Phật. Trừ việc cúng dường Phật ngoài ra chẳng được
dùng. Người lạm dụng thời phạm tội lấy trộm vật của
Phật.
A Nan
lại bạch : Lúc Phật còn có người đem vàng bạc bảy báu
điện đường phòng nhà y phục đồ uống ăn tất cả đồ
cần dùng, hoặc vợ con tôi tớ mà cung kính cúng dường Như
Lai. Sau khi Phật nhập diệt nếu có người đem những vật
như trên mà cung kính cúng dường tượng Phật. Bạch Thế
Tôn ! Phước đức của hai người nầy ai nhiều hơn ?
Phật
nói : Vì đều cung kính cúng dường cả nên phước đức của
hai người được đồng nhau. Dầu Phật diệt độ nhưng pháp
thân vẫn thường còn, nên cung kính cúng dường được phước
vẫn đồng như Phật hiện tại.
A Nan
lại bạch ; Lúc Phật hiện tại nếu có người đem những
vật như trên cung kính cúng dường Phật, sau khi Như Lai nhập
Niết Bàn, nếu có người đem những vật như trên cung kính
cúng dường toàn thân Xá Lợi, phước đức của hai người
nầy, ai nhiều hơn ?
Phật
nói : Hai người nầy được phước đồng nhau công đức rộng
lớn vô lượng vô biên nhẫn đến hết khổ, phước đó chẳng
hết.
A Nan
lại bạch : Lúc Phật hiện tại, nếu có người cung kính
cúng dường Phật như trên, sau khi Phật nhập Niết Bàn nếu
có người cung kính cúng dường nửa thân Xá Lợi ai được
phước nhiều hơn ?
Phật
nói : Vì hai người đều cung kính cúng dường nên được
phước đồng nhau phước đức nầy vô lượng vô biên.
Nầy
A Nan ! Nhẫn đến cung kính cúng dường một phần tư Xá Lợi,
một phần tám , một phần trăm, một phần ngàn, một phần
muôn, một phần hằng hà sa, hoặc chừng bằng hột cải, người
nầy được phước cũng đồng như người cung kính cúng dường
Đức Như Lai hiện tại.
A Nan
nên biết rằng hoặc Phật hiện tại hoặc đã nhập Niết
Bàn, nếu có người cung kính cúng dường lễ bái tán thán,
được phước đức đồng nhau không khác.
Phật
bảo A Nan cùng đại chúng : Sau khi ta nhập Niết Bàn, tất
cả chúng sanh hoặc thiên thượng hay nhơn gian , được Xá
Lợi của ta mà vui mừng thương cảm cung kính lễ bái cúng
dường thời được vô lượng vô biên công đức.
Nầy
A Nan ! Nếu thấy Xá Lợi của Như Lai thời là thấy Phật,
thấy Phật là thấy Pháp, thấy Pháp là thấy Tăng, thấy Tăng
là thấy Niết Bàn.
A Nan
nên biết rằng do nhơn duyên trên đây mà Tam Bảo thường
trụ không biến đổi, có thể làm chỗ quy y cho tất cả chúng
sanh.
A Nan
bạch Phật : Sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, tất cả đại
chúng y theo phép tắc nào để trà tỳ thân Như Lai để được
Xá Lợi cung kính cúng dường.
Phật
nói : “ Khi ta nhập Niết Bàn rồi, đại chúng nên y theo phương
pháp trà tỳ Chuyển Luân Thánh Vương.”
A Nan
bạch Phật : “ Pháp tắc trà tỳ Chuyển Luân Thánh Vương
như thế nào ?”
Phật
nói : Sau khi Chuyển Luân Thánh Vương mạng chung, đình thi hài
bảy ngày mới để vào quan tài vàng, rồi lấy dầu thơm vi
diệu đổ đầy quan tài đậy lại thật kín. Đủ bảy ngày
đem thi hài ra, dùng nước thơm tắm rửa, đốt hương thơm
cúng dường. Dùng bông Đâu La Miên bao khắp thân thể, sau
đó dùng ngàn bức bạch điệp tốt đẹp vô giá thứ tự
vấn chồng lên nhau khắp thi hài của Luân Vương. Vấn xong
đổ dầu thơm đầy trong kim quan rồi mới để thi hài Luân
Vương vào. Đậy kín quan tài xong, chở trên xe thất bảo,
bốn mặt treo các chuỗi ngọc, dùng châu báu trang nghiêm xe
ấy, vô số phan lọng bằng châu báu tốt đẹp giăng treo trên
xe. Đốt hương thơm , trổi đại nhạc để cúng dường. Sau
đó dùng thuần những gỗ thơm cùng những dầu thơm mà trà
tỳ. Trà tỳ xong hốt lấy Xá Lợi, xây tháp thất bảo giữa
đường ngã tư trong thành, bốn phía tháp có bốn cửa an trí
Xá Lợi trong đó, để cho tất cả mọi người đồng chiêm
ngưỡng.
Nầy
A Nan ! Chuyển Luân Thánh Vương kia do chút ít phước đức
được nối ngôi vua, chưa thoát khỏi ba cõi, còn đủ ngũ
dục thê thiếp, ác kiến tham, sân, si, tất cả phiền não
kiết sử chưa dứt được một mảy. Sau khi mạng chung mà
thế gian còn theo cách thức như vậy, dựng tháp cúng dường
để mọi người chiêm ngưỡng, huống là Đức Như Lai đã
trải qua vô lượng, vô biên, vô số kiếp bỏ hẳn ngũ dục,
tinh tấn thật hành tất cả khổ hạnh xuất thế của Bồ
Tát, đã thành tựu đạo hạnh thậm thâm vi diệu thanh tịnh,
giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, sáu môn
Ba La Mật, tu tập thập lực, đại bi, bốn vô sở úy, ba môn
giải thoát, mười tám đại không, lục thông, ngũ nhãn, ba
mươi bảy phẩm, mười tám bất cộng, ba mươi hai tướng
tốt, tám mươi vẻ đẹp, thọ mạng của tất cả chư Phật,
tất cả cõi Phật thanh tịnh, tất cả pháp thành tựu chúng
sanh, tất cả khổ hạnh khó làm, tất cả nhiếp luật nghi
giới, tất cả nhiếp thiện pháp giới, tất cả nhiếp chúng
sanh giới, tất cả công đức, tất cả trí huệ, tất cả
trang nghiêm, tất cả đại nguyện, tất cả phương tiện,
tất cả trí huệ phước đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy,
đều đã thành tựu đầy đủ, dứt trừ tất cả ác, dứt
trừ tất cả phiền não, dứt trừ tất cả phiền não tập
khí, thông đạt tứ đế thập nhị nhơn duyên, nơi cội Bồ
Đề hàng phục bốn ma thành tựu nhứt thiết chủng trí. Được
tất cả chư Phật xướng lời khen lành thay ! Lành thay ! Đồng
lấy nước trí pháp tánh, rưới trên đỉnh pháp thân, mới
thành vô thượng Bồ Đề. Do nhơn duyên như vậy nên nay ta
hiệu là Thiên Nhơn Sư thập lực đẳng giác, Thế Tôn
vô thượng, nhơn gian thiên thượng không ai bằng, bình đẳng
xem chúng sanh như La Hầu La, do đó ta hiệu là Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Duyên
giáo hóa thế gian đã xong, ta vì chúng sanh ên hôm nay thị
hiện nhập Niết bàn. Vì muốn cho chúng sanh khắp được cúng
dường, nên ta theo pháp thế gian như vua Chuyển Luân, mà tẩn
táng cùng trà tỳ.
Tứ
chúng nhơn thiên đem Xá Lợi của Như Lai đựng trong bình thất
bảo xây dựng tháp thất bảo để cúng dường Xá Lợi, có
thể làm cho chúng sanh được công đức lớn, lìa khổ ba cõi
đến vui Niết Bàn.
Nầy
A Nan ! Hàng tứ chúng xây tháp thất bảo cúng dường Xá Lợi
của Phật rồi, lại nên xây ba thứ tháp để cúng dường
: Tháp Bích Chi Phật, tháp A La hán, tháp Chuyển Luân Thánh
Vương, vì muốn cho mọi người biết chỗ quy y vậy.
A Nan
bạch Phật : Đức Như Lai ra đời thương xót chúng sanh, hiển
bày thập lực, đại bi, bốn vô sở úy, ba môn giải thoát,
tứ đế, mười hai nhơn duyên, tám thứ phạm âm vang rền
ba cõi, từ quang ngũ sắc soi khắp lục đạo, tùy thuận tâm
nghiệp của chúng sanh mà chuyển pháp luân, có người chứng
được bốn quả của nhị thừa tu tập, hoặc chứng đạo
Duyên Giác vô lậu vô vi, hoặc nhập lực Bồ Tát bất diệt
bất sanh, hoặc được vô lượng Đà La Ni, hoặc được ngũ
nhãn, hoặc được lục thông, hoặc thoát ba ác đạo, hoặc
ra khỏi tám nạn, hoặc lìa khổ trời người ba cõi. Đức
từ thanh tịnh của Như Lai, pháp môn giải thoát của
Như Lai đều chẳng thể nghĩ bàn.
Sau
khi nhập diệt, hàng tứ chúng dựng tháp bảy báu cúng dường
Xá Lợi được công đức lớn, có thể làm cho chúng sanh thoát
khổ ba cõi, được chánh giải thoát. Do nhơn duyên nầy nên
khi Phật nhập Niết Bàn, tất cả thế gian vì báo đáp từ
ân vô lượng của Phật mà xây tháp thất bảo để cúng dường
Xá Lợi, theo lẽ phải như vậy. Ba thứ pháp kia có những
lợi ích gì đối với chúng sanh mà đức Phật bảo dựng
tháp cúng dường ?
Pật
nói : “ Bích Chi Phật tỏ ngộ nhơn duyên của các pháp chứng
nhập pháp tánh, đã thoát tất cả khổ hoạn trong tam giới,
có thể làm phước điền cho nhơn thiên. Do đây nên xây tháp
cúng dường Bích Chi Phật được phước đức kế nơi sự
cúng dường Như Lai, có thể làm cho chúng sanh đều được
diệu quả.
Nầy
A Nan ! A La Hán kia đối với ba cõi đã hết sanh tử chẳng
thọ thân đời sau, phạm hạnh đã lập có thể làm phước
điền cho thế gian, nên xây tháp cúng dường được phước
đức kế sự cúng dường Bích Chi Phật, cũng làm cho chúng
sanh được nhơn duyên giải thoát.
Nầy
A Nan ! Chuyển Luân Thánh Vương dầu chưa dứt phiền não, chưa
giải thoát ba cõi, nhưng do phước đức mà cai trị bốn thiên
hạ, đem pháp thập thiện giáo hóa nhơn dân, là bực tôn kính
của mọi người, nên tứ chúng dựng tháp cúng dường, được
phước đức cũng là vô lượng .”
A Nan
bạch Phật : “ Sau khi Phật nhập Niết Bàn, hàng tứ chúng
nên làm lễ trà tỳ đức Như Lai tại chỗ nào ?”
Phật
nói : “ Sau khi ta nhập Niết Bàn, nếu tứ chúng làm lễ trà
tỳ ở trong thành Câu Thi Na nầy, người trong thành tất tranh
giành đánh đập nhau, và cũng làm cho tất cả mọi người
được phước chẳng đồng nhau. Nên tứ chúng phải làm lễ
trà tỳ ở ngoài thành, cho mọi người đều bình đẳng được
phước.”
A Nan
bạch Phật : “ Trà tỳ xong, tứ chúng dùng bình báu để
đựng Xá Lợi, thời nên dựng tháp thất bảo ở tại chỗ
nào để cho tất cả mọi người đều được cung kính cúng
dường ?”
Phật
nói : “ Nên ở trong thành Câu Thi Na, nơi ngã tư đường mà
xây tháp cao mười ba từng, trước pháp có tướng pháp luân,
phan lọng, lan can đều bằng thất bảo, bốn mặt tháp đều
mở một cửa, từng lớp cửa nẻo xứng nhau an trí bình báu
đựng Xá Lợi của Như Lai trong đó cho tất cả trời người
chiêm ngưỡng cúng dường.
Tháp
của Bích Chi Phật nên mười một từng . Tháp của A La Hán
nên bốn từng. Cũng đều dùng các thứ báu mà trang nghiêm.
Tháp
của Chuyển Luân Vương cũng xây bằng bảy báu nhưng không
có từng cấp, vì Luân Vương chưa thoát khổ sanh tử trong
ba cõi.”
A Nâu
Lâu Đà bạch Phật : Khi trà tỳ xong, tất cả Trời người
cùng bốn bộ chúng phân chia Xá Lợi của Phật như thế nào
?
Phật
nói : “ Nên dùng tâm bình đẳng phân chia Xá Lợi của Phật
khắp ba cõi để tất cả thế gian đều được cúng dường
.”
Thiên
Đế Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : “ Nay tôi xin cung kính
thỉnh nửa thân Xá Lợi của Như Lai để cúng dường.”
Phật
bảo Thiên Đế : “ Đức Như Lai bình đẳng xem chúng sanh
như La Hầu La, ông chẳng nên thỉnh nửa thân Xá Lợi. Nay
ta cho ông một cái răng nanh Xá Lợi hàm trên bên hữu, có
thể xây tháp cúng dường ở trên Trời, làm cho ông được
phước đức vô tận.”
Lúc
đó tất cả đại chúng Trời người buồn thương rơi lệ
không tự dằn được.
Đức
Thế Tôn bảo khắp đại chúng : “ Khi Phật nhập Niết Bàn
rồi, đại chúng chớ quá sầu não. Vì dầu Phật nhập Niết
Bàn mà Xá Lợi vẫn thường còn để cúng dường. Lại có
những pháp bảo vô thượng, tạng Tu Đa La, tạng Tỳ Nại
Da, tạng Ma Ha Đạt Ma, do đây Tam Bảo và tứ đế vẫn thường
trụ ở thế gian, làm chỗ quy y cho chúng sanh. Vì cúng dường
Xá Lợi tức là Phật Bảo, thấy Phật Bảo là thấy pháp
thân, thấy pháp thân là thấy hiền thánh ,thấy hiền thánh
là thấy tứ đế, thấy tứ đế là thấy Niết Bàn. Do đây
nên biết rằng Tam Bảo thường trụ không biến đổi, có
thể làm chỗ quy y cho thế gian.
Đại
chúng chớ quá sầu khổ. Nay ta ở đây sắp nhập Niết Bàn.
Trong những pháp : Quy y, giới luật, thường, vô thường, Tam
Đảo, tứ đế, lục độ, mười hai nhơn duyên v.v…, nếu
ai có điều chi nghi phải mau thưa hỏi, đây là lời hỏi rốt
ráo cuối cùng để sau khi Phật nhập Niết Bàn không còn nghi
hối.”
Đức
Phật phổ cáo trong đại chúng ba lần như vậy.
Tất
cả đại chúng không ai thưa hỏi, vì ai nấy đều thông đạt
hiểu rõ không còn nghi ngờ.
Đức
Thế Tôn khen rằng : Lành thay ! Lành thay Đại chúng đã
có thể thông đạt các pháp không còn nghi ngờ như nước
sạch rửa hết bụi nhơ nơi thân. Đại chúng phải tinh tấn
sớm được giải thoát, chớ sầu não mê muội loạn tâm.
Lúc
đó Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư Tử, lấy tay vàng vạch
y tăng già lê để lộ ngực huỳnh kim cho đại chúng thấy
rồi bảo rằng : Tất cả đại chúng Trời người nên chí
tâm nhìn xem sắc thân hùynh kim của Như Lai !
Đại
chúng chiêm ngưỡng sắc thân vàng ròng của Phật thảy đều
sung sướng như Tỳ Kheo nhập đệ tam thiền.
Sau
đó Đức Thế Tôn phóng vô lượng vô biên trăm ngàn muôn
ức ánh sáng Đại Niết Bàn chiếu khắp tất cả thế giới
mười hương, che khuất ánh sáng của tất cả mặt trời mặt
trăng.
Phóng
ánh sáng trên đây rồi Đức Phật bảo đại chúng : Mọi
người nên biết rằng Đức Như Lai vì tất cả đại chúng
mà cần khổ trong nhiều kiếp, đến chặt tay chơn lóc da thịt,
đại bi đại nguyện thành bực vô thượng chánh giác nơi
đời ngũ trược nầy, được sắc thân Kim Cang bất hoại
đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, vô lượng
ánh sáng chiếu khắp tất cả. Ai thấy được hình, gặp được
ánh sáng của Phật, đều được giải thoát cả.
Nầy
đại chúng ! Phật ra đời rất khó gặp khó thấy như hoa
Ưu Đàm. Đại chúng gặp ta đây là lần sau cùng, đối với
thân nầy chớ để luống qua. Do sức thệ nguyện mà ta sanh
nơi cõi uế ác nầy. Duyên giáo hóa đã hòan tất, nay ta muốn
nhập Niết Bàn. Đại chúng nên chí thành nhìn xem sắc thân
hùynh kim của ta, cố gắng tu tập nghiệp thanh tịnh như vậy,
đời vị lai sẽ được quả báo nầy.
Đức
Thế Tôn ba phen ân cần khuyên bảo như vậy, đồng thời bày
thân chơn kim cho đại chúng thấy.
Sau
đó Đức Phật từ trên giường thất bảo sư tử bay lên
hư không cao bằng một cây Đa La, bảo một lần rằng : “
Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nhìn xem sắc thân huỳnh
kim của ta !”
Lần
lượt đức Phật bay trên cao bằng bảy cây Đa La, bảy lần
bảo rằng : Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm
nhìn xem sắc thân huỳnh kim của ta !
Từ
hư không xuống ngồi trên giường sư tử Đức Phật lại
bảo : Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm nhìn
xem sắc thân huỳnh kim của ta !
Đức
Thế Tôn từ trên giường sư tử lại bay lên hư không cao
bằng một cây Đa La, thời một lần bảo đại chúng, lần
lượt bay cao bằng bảy cây Đa La, bảy lần bảo rằng : Ta
sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên chí tâm nhìn xem sắc
thân huỳnh kim của ta !
Từ
hư không xuống ngồi trên giường sư tử Đức Phật lại
kêu đại chúng mà bảo rằng: Ta sắp nhập Niết Bàn, đại
chúng nên chí tâm nhìn xem sắc thân huỳnh kim của ta!
Lần
thứ ba, Đức Thế Tôn cũng từ trên giường sư tử bay lên
hư không cao bằng bảy cây Đa La, đồng thời cũng bảy lần
bảo đại chúng như vậy. Từ hư không xuống ngồi trên giừơng
thất bảo Đức Phật lại bảo : Ta sắp nhập Niết Bàn ,
đại chúng nên chí tâm nhìn xem nơi sắc thân của ta !
Đức
Phật hai mươi bốn lần ân cần bảo đại chúng như vậy,
rồi lại bảo rằng : Ta sắp nhập Niết Bàn, đại chúng nên
chí tâm nhìn xem sắc thân vô úy Kim Cang bất hoại của ta
rất khó gặp gỡ như hoa Ưu Đàm, như người quá khát gặp
nước trong mát thời uống đến no không còn khao khát, đại
chúng cũng phải như vậy, nên chí tâm chiêm ngưỡng sắc thân
của Như Lai lần sau cùng, sau lần thấy nầy không còn thấy
lại nữa. Đại chúng nên chiêm ngưỡng cho thỏa mãn để
về sau khỏi ăn năn.
Sau
khi ta nhập Niết Bàn, đại chúng phải tinh tấn tu hành sớm
ra khỏi ba cõi, chớ có giãi đãi phóng dật tán tâm.
Lúc
đó tất cả đại chúng Trời người trong tất cả thế giới
mười phương được gặp ánh sáng Niết Bàn, được chiêm
ngưỡng đúc Phật đều được giải thoát. Những chúng sanh
được gặp được thấy đều được dứt hẳn tam đồ bát
nạn, bốn tội trọng, năm tội nghịch, đến tất cả phiền
não đều dứt hẳn không còn thừa.
Sau
khi lộ bày sắc thân huỳnh kim cho tứ chúng chiêm ngưỡng
và ân cần khuyến cáo xong, Đức Thế Tôn kéo y tăng già đắp
lại như cũ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầy
đồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Có
người khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơm
ngon, liền hỏi đây là vật gì ? Người bán nói : Đây là
đồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ nầy, thời đặng sắc tốt,
sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chư
Thiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Người
khách nghe xong nghĩ rằng : Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sức
mạnh, thấy chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xong
hỏi rằng : Ăn vật thực nầy nếu phải chết sao ông lại
đem bán.
Người
bán đáp : Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉ
có kẻ ngu, chẳng biết việc nầy, họ tham ăn nên họ trả
giá đắt cho tôi.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyện
sanh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chư
Thiên, vì sanh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàm
phu ngu si sanh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấy
gìa, bệnh, chết.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giết
người, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thể
giết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đều
có thể hại chúng sanh cũng như vậy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả.
Cũng vậy, thọ sanh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mười
tuổi cũng đều khổ não cả.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trên
miệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, người
nào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnh
tật, an ổn , khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳng
biết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờ
trật chơn té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguy
hiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.
Đại-Bồ-Tát
cũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượng
diệu cõi trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bèn
ở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượng
diệu cõi trời cõi người mà có thể chẳng ăn.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra còn
vô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sanh thiệt là rất
khổ.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát sanh là khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát lão là khổ như thế nào ?
Sự
già yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làm
mất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mất
sự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm,
mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nước
rất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hư
nát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắc
đẹp.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như quốc vương có một trí thần dùng
binh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo.
Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nước
nghịch mang về dưng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắt
được tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho tử vương.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùng
được. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vào
việc gì.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như nhà giàu to có nhiều của báu : Vàng ,
bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướp
nếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả.
Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặc
già suy cướp giựt.
Nầy
thiện-nam-tử ! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phục
mịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy,
tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dục
sung sướng mà chẳng thể đặng.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thường
nghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héo
mà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dục
thuở tráng kiện.
Nầy
thiện-nam-tử ! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đến
khi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sự
tráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khi
già suy ai cũng nhàm ghét.
Nầy
thiện-nam-tử ! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác không
còn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị già
ép, thời không có ba thứ vị : Một là vị xuất gia, hai là
vị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng,
ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hình
mạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinh
thần kém suy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! ví như có nhà vua thường dùng chánh pháp cai
trị nhơn dân, chơn thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí.
Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bèn
lưu vong đến nước khác. Nhơn dân trong nước kia thấy nhà
vua đều cảm thương nói rằng : Đại-vương ngày trước dùng
chánh pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tánh, thế sao nay
lại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị già
suy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làm
thuở tráng kiện.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡ
dầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân người
dầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trải
qua già suy, đâu còn được dùng lâu.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như con sông cạn khô không có thể lợi
ích cho ngưới, cho phi nhơn, chim thú. Cũng vậy, thân người
bị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳng
thể có lợi ích.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gió
to, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết,
thế chẳng thể còn được.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên.
Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy,
già suy thường bị người khinh hủy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượng
thí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát già là khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát bịnh khổ như thế nào ?
Ví
như mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thể
phá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ.
Như
người có oán thù , tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy,
tất cả chúng sanh thường bị bịnh khổ, lo rầu không yên.
Ví
như có người hình dung xinh đẹp, Vương-phi tâm dục yêu thương,
sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liền
truyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt một
tay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bị
người nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trước
thời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bịnh
khổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.
Như
cây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thì
chết. Cũng vậy, người có bịnh thời chết.
Như
vua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm tiền đạo
đi trước, nhà vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúa
ốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thời
toàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sự
chết thường theo sát bịnh khổ không rời.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Nhơn duyên của bịnh làm cho khổ não, rầu
lo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướp
bức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũng
có thể cướp giựt mạng sống. Bịnh lại có thể phá hoại
sự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàm
quý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức.
Do
những điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biết
bịnh rất là khổ não.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát bịnh khổ.
Nầy
thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa
Đại- Niết-Bàn quán sát tử khổ ? Sự chết có thể đốt
cháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tất
cả, chỉ trừ cõi trời nhị thiền trở lên, vì thế lực
của hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể
tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa
Đại-Niết-bàn vì thế lực của sự chết không đến được.
Như
lúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập,
chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì thế lực của thủy tai
chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tất
cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Như
lúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừ
cõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được.
Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ
Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Ca-Diếp-Bồ-Tát
bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì mà
gió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳng
cháy đến ?”
_ Nầy
Thiện-nam-tử ! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạn
trong thân và ngoại cảnh.
Cõi
Sơ- Thiền có quá hoạn : Trong có giác quán, ngoài có hỏa
tai.
Cõi
Nhị-Thiền có quá hoạn : Trong có vui mừng, ngoài có thủy
tai.
Cõi
Tam-Thiên có quá hoạn : Trong có hơi thở, ngoài có phong tai.
Cõi
Tứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ tai
họa lớn chẳng thể đến được.
Đại-Bồ-Tát
cũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trong
ngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đến
được.
Lại
nầy Thiện-nam-tử : Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thể
tiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân,
chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sự
chết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sanh, chỉ
không tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nước
lụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừ
cây dương liễu, vì thứ cây nầy mềm dẽo. Cũng vậy, tất
cả chúng sanh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Tát
trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như thần Na-La-Diên có thể hàng phục
tất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũng
vậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sanh, chỉ
trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậc
nầy vô ngại.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Ví như có người đối với kẻ thù giả
làm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuận
tiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời người
kia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúng
sanh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Tát
trụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát nầy
chẳng phóng dật.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Ví như trời bỗng mưa kim cương xối
xuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng,
bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kim
cương chơn bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều có
thể phá hoại tất cả chúng sanh, chỉ trừ kim cương Bồ-Tát
trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loài
rồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy,
sự chết có thể nuốt tất cả chúng sanh, chỉ trừ Bồ-Tát
trụ ba môn chánh định : Không, vô tướng vô nguyện.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như độc rắn ma-la, khi rắn nầy cắn
nhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được,
chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy,
sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉ
trừ Bồ- Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại
nầy Thiện-nam-tử ! Như có người bị nhà vua giận, có thể
dùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặng
khỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nói dịu
dàng, tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng thoát
khỏi.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, không
gì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêm
đi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đèn
đuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu không
chỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không ai
ngăn được, nó đến không thể thoát được, không phá phách
gì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấu
xa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳng
hay biết được.
Nầy
Ca-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thí
dụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.
Đây
gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát tử khổ.
NầyThiện-nam-tử
! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-
Bàn quán sát ái-biệt-ly khổ ? Ái biệt-ly nầy có thể làm
cội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằng :
Nhơn
ái sanh lo, Nhơn ái sanh sợ, Nếu lìa sự ái, Nào lo nào sợ.
Vì
ái nên sanh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sanh có
già suy. Ái- biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly hay
sanh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõ
ràng.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi,
có quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muôn
bốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứu
thịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, không
làm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sanh một
đồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên là
Đãnh-Sanh.
Thời
gian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đảnh-Sanh,
tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngày
rằm Thái-Tử Đảnh-Sanh lên ngôi, đương ở trên lầu cao
tắm gội trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánh
xe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đảnh-Sanh
nghĩ rằng : Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhơn nói : Nếu dòng vua
Sát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới,
có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nên
thí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đảnh-Sanh tay tả bưng báu kim-luân,
tay hửu cầm lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng
: Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vua
Chuyển-Luân Thánh-Vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừa
xong, thời báu kim-luân bay lên hư không, bay khắp mười phương,
rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đảnh-Sanh. Nhà
vua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.
Sau
đó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng như
bạch liên-hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vì
muốn thí nghiệm vua Đảnh-Sanh liền bưng lư hương quì gối
bên hữu mà phát thệ rằng : Nếu thật là báu bạch tượng
nên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương quá khứ.
Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bay
đi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cung
vua. Kế đó lại có Mã-bửu xuất hiện, lông màu xanh biếc
mướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thí
nghiệm vua Đảnh-Sanh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phát
thệ rằng : Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như của
vua Chuyển-Luân Tánh-Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từ
sáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mé
biển rồi trở về cung vua.
Kế
đó lại có Nữ-bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhứt, chơn
lông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa sen
xanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngữi
cũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt,
da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ,
lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay người
ấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khỏe mạnh
hay bịnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.
Kế
đó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắp
vế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tối
có thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớn
như trục xe, thế lực của bảo châu nầy có thể che một
do tuần, giọt mưa không rơi xuống được.
Sau
đó, lại có Chủ- tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấy
thấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốn
đều có thể dưng đủ. Vua Đảnh-Sanh muốn thí nghiệm bèn
cùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạng
thần : Nay ta muốn đặng châu báu. Chủ-tạng thần liền lấy
hai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ra
mười kho châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng : “Tùy ý nhà
vua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển.”
Kế
đó lại có chủ-binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhứt,
điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thời
hiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quân
lính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần nầy
có thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủ
sức giữ gìn.
Lúc
đó vua Đảnh-Sanh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảo
các quan :
“
Cõi Diêm-Phù-Đề nầy an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ,
cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì ?”
Các
quan tâu : “ Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận,
đại vương nên đem binh qua chinh phục.”
Vua
Đảnh-Sanh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhơn
dân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.
Các
quan lại tâu nên chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi chinh
phục ba châu xong. Vua Đảnh-Sanh bảo các quan : “ Châu Nam-Diêm-Phù-Đề
này cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuận
ta, nay đây lại nên làm việc gì ?”
Các
quan tâu : “ Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu , an ổn,
khoái lạc, thân chư Thiên xinh đẹp hơn nhơn gian, cung điện
nhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trời
chưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp.”
Vua
Đảnh-Sanh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao-Lợi,
trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần : Đó
là cây gì ?
Đại-thần
tâu : Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La, chư Thiên cõi Đao-Lợi
nầy đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới cây
đó.
Lại
trông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đảnh-Sanh hỏi
đại thần chỗ đó là gì ? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường,
chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luận
những việc cõi trời cõi người.
Thiên-Chúa
Thích-Đề-Hoàn-Nhơn biết vua Đảnh-Sanh đã đến, liền ra
tiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi.
Hai vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìn
nháy là khác nhau.
Lúc
đó vua Đảnh-Sanh nghĩ rằng : nay ta có thể đuổi thiên-chúa
nầy để ta ở đây làm thiên-vương.
Thiên-Đế-Thích
vốn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại-thừa, thường vì
chư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩa
của kinh. Do thọ trì giảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đế
có oai đức hơn.
Khi
vua Đảnh-Sanh khởi ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phước
liền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc cõi trời lòng
rất khổ não. Không bao lâu vua Đảnh-Sanh phải bịnh
chết.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thiên-Đế thuở đó chính là Phật Ca-Diếp,
vua Đảnh-Sanh thời là tiền thân của ta.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là khổ
não.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những trường hợp
ái-biệt-ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơi
kinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng quán sát sự
ái-biệt-ly khổ trong đời hiện tại !
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu hành kinh
Đại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát oán-tằng-hội khổ ?
Đại-Bồ-Tát
nầy quán sát địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ, loài người,
trên trời đều có sự oán-tằng-hội-khổ như vậy.
Ví
như có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng là
rất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát quán sát năm loài chúng
sanh đều là oán-tằng-hội-hiệp rất khổ sở.
Ví
như có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích,
nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệp
mà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ sanh tử,
nên tu hành sáu môn Ba-La-Mật, chứng nhập Niết- Bàn. Đây
gọi là Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát
oán-tằng-hội khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành Đại-thừa
Đại-Niết- Bàn quán sát cầu-bất-đắc khổ ?
Cầu
là mong cầu tất cả , có hai thứ : Một là cầu pháp lành,
hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặng
thời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.
Đây
là lược nói ngũ- ấm-thạnh khổ. Đây gọi là khổ đế.
Ca-diếp
Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Như lời Phật nói, ngũ
ấm thạnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trước
Phật bảo Thích-Ma-Nam : Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sanh
lẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳng
gọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ
: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúc
trước đức Phật nói với các Tỳ-kheo : Nếu người nào
có thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đức
Phật nói : Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnh
vui : Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫn
đến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.
Như
Phật từng nói kệ :
Trì
giới thời là vui, Thân chẳng thọ sự khổ. Ngủ
nghỉ đặng an ổn, Thức dậy lòng vui vẻ. Lúc nhận
lấy y thực, Đọc tụng và kinh hành, Ở riêng nơi
núi rừng, Như vậy là rất vui. Nếu đối với chúng
sanh, Ngày đêm tu lòng từ, Nhơn đây được thường
vui, Vì chẳng hại người khác. Ít muốn biết đủ vui, Học rộng biết nhiều vui, A-La-Hán không chấp, Cũng
gọi là thọ vui, Các vị Đại Bồ-Tát, rốt ráo
đến bờ kia. Những việc làm đã xong, Đây gọi
là rất vui.
Thế-Tôn
! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thế
nào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay ?
Phật
bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Ông khéo
có thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Tất cả chúng sanh đối với sự khổ hạng
hạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổ
không khác với ngày trước đã nói.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : “ Như lời Phật hỏi : Đối với
sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sanh, lão, bệnh,
tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán- tằng-hội,
ngũ-ấm-thạnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũng
nên có vui.
Thế-Tôn
! Sanh hạng hạ là ba ác thú, sanh hạng trung là loài người,
sanh hạng thượng là trên trời.
Nếu
lại có người hỏi rằng : Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởng
cho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổ
không vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thời
phải trả lời thế nào ?
Thế-Tôn
! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấy
có người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánh
một trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánh
trượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng : Nơi
trong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui ?”
Phật
bảo Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Phải lắm ! Phải lắm ! Đúng như
lời ông nói. Do nghĩa nầy nên không có tưởng là vui, vì
như người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bị
đánh một trượng rồi liền đặng tha. Người nầy bèn sanh
lòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởng
là vui.”
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Người đó chẳng vì bị đánh
một trượng mà sanh vui. Chính vì đặng tha mà sanh lòng
vui.
_ Nầy
Thiện-nam-tử ! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Nam
trong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phải
mâu thuẩn vậy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là : Lạc thọ,
khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là : Khổ-khổ,
hành khổ, hoại khổ.
Nầy
T.hiện-nam-tử ! Khổ thọ chính là cả ba món khổ : Khổ-khổ,
hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổ
và hoại khổ. Do đây nên trong sanh tử thiệt có lạc thọ.
Đại-Bồ-Tát thấy tánh khổ cùng tánh lạc chẳng rời lìa
nhau nên nói rằng tất cả đều khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Trong sanh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : “ Thế-Tôn ! Chư Phật và Bồ-Tát nếu
tùy theo thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng ? Như
Phật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quả
báo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việc
làm đã xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinh
như vậy, chừng có hư vọng chăng . Nếu là hư vọng, thời
chư Phật Thế-tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếp
tu hành đạo bồ-đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói như
vậy ý nghĩa thế nào ?
_ Nầy
Thiện-nam-tử ! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trước
kia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡng
vô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trước
nói tướng vui như vậy.
Ví
như trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, có
thể làm nhơn cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượu
uống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh được
lửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng,
bạc, lưu ly, san hô, chơn châu, kho đựng lúa gạo, những vật
như vậy người đời cần dùng có thể làm nhơn cho sự vui
nên gọi là vui.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Những vật như vậy cũng có thể sanh sự khổ.
Nhơn nơi nữ sắc sanh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫn
đến phải chết cho người nam. Nhơn nơi rượu, đồ ăn ngon,
nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổ
nhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướng
rốt ráo vui.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ nầy, hiểu
rỏ là khổ nên không bị khổ.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biết
nhơn của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạng
hạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-Thừa
Đại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhơn của sự khổ sự vui
nầy.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-Thừa
Đại-Niết- Bàn quán sát tập đế ? Đại-Bồ-Tát quán sát
tập đế là nhơn duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái-luyến
nơi hữu. Ái có hai thứ : Một là ái thân mình, hai là ái
đồ cần dùng. Lại có hai thứ : Năm thứ dục lạc, lúc chưa
đặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắm
trước. Lại có ba thứ : dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lại
có ba thứ : Nghiệp nhơn duyên ái, phiền não nhơn duyên ái,
khổ nhơn duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái : Y phục,
đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ : Tham
lam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toan
tính phân biệt vô-lượng vô-biên.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Ái có hai thứ : Một là thiện ái, hai là bất
thiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Các
vị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ
: Bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị-thừa gọi là bất thiện.
Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Kẻ phàm phu tham ái gọi là “ tập” chẳng
gọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là thật
đế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ chúng sanh nên
thị hiện thọ sanh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sanh.
Ca-Diếp
Bồ-Tát bạch Phật : Thế-Tôn ! Như trong các kinh khác đức
Phật vì chúng sanh mà nói nghiệp làm nhơn duyên, hoặc nói
kiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhơn duyên
mà có ngũ ấm xí-thạnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phật
nói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhơn cho ngũ ấm.
Phật
khen Ca-Diếp Bồ-Tát : “ Lành thay ! Lành thay ! Đúng như lời
ông vừa nói, các nhơn duyên chẳng phải làm cũng chẳng phải
nhơn, chỉ vì năm ấm cần phải nhơn nơi ái.
Ví
như quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảy
đều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiết
sử cũng đi theo.
Ví
như y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũng
vậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.
Ví
như đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thể
sanh tất cả mầm nghiệp phiền não.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn
quán sát kỹ ái nầy có chín thứ : Một là như thiếu nợ,
hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắn
độc vấn , bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, năm
là như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịt
thúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.
Như
thiếu nợ là thế nào ! Ví như người nghèo cùng thiếu tiền
của người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nên
bị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác
vì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượng
bồ-đề.
Như
vợ La-Sát là thế nào ? Ví như có người lấy gái La-Sát
làm vợ, gái La- Sát nầy hễ sanh con liền ăn thịt, ăn thịt
con đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy người
sanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ăn
luôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh ngã
quỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
cọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào ? Như có người
thích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liền
đến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắm
ngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làm
hại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị
Bồ-Tát.
Vật
thực độc mà cố ăn là thế nào ? Như có người cố ăn
vật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúng
sanh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đường
ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
dâm nữ là thế nào ? Ngư người ngu tư thông với dâm nữ,
dâm nữ nầy thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền của
rồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bị
tham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong ba
đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
hột ma-lâu-ca là thế nào ? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩn
chim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn cây
to làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháp
lành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chết
đọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.
Thịt
thúi trong mụn nhọt như thế nào ? Như người bị ung nhọt,
trong nhọt sanh thịt thúi, người bịnh nầy phải chuyên tâm
chạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sanh trùng có
thể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sanh
trong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu không
điều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các
vị Bồ-Tát.
Như
gió bão là thế nào ? Gió bão có thể làm lở núi ngã
cây. Cũng vậy, tham ái sanh tâm ác đối với cha mẹ,
có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng Bồ- Đề của các
ông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như
sao chổi là thế nào ? Như sao chổi mọc thời trong thiên
hạ phải bịnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy,
ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùng
thiếu thốn sanh bịnh phiền não lưu chuyển trong sanh tử mang
nhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Nầy
Thiện-nam-tử ! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bàn
quán sát tham ái có chín thứ như vậy.
Do
nghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh-Văn
Duyên- Giác có khổ đế mà không chơn thật. Các vị Bồ-Tát
hiểu khổ không có khổ mà có chơn đế. Hàng phàm phu có
tập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên- Giác có tập có tập
đế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có chơn
đế. Hàng Thanh- Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chơn.
Đại-Bồ-Tát có diệt có chơn đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác
có đạo mà chẳng phải chơn. Đại Bồ-Tát có đạo có chơn
đế.