Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Phật độ ông Phất-Ca-Sa

09 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9815)
8. Phật độ ông Phất-Ca-Sa

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt

VIII. PHẬT ĐỘ ÔNG PHẤT-CA-SA

Khi đức Thế-Tôn nói bài kệ ấy rồi, Ngài liền bảo ông A-Nan: “Nay Tôi thấy đau mình, muốn chóng đến thành Cưu-thi-na!”

Bấy giờ, ông A-Nan cùng các vị Tỳ-Khưu và ông Thuần-Đà, nghe đức Phật nói lời ấy, sinh đau khổ quá, kêu-khóc thướt-mướt, không tự hãm được.

Ngay lúc đó, đức Thế-Tôn từ tòa ngồi của mình đứng dậy, cùng các vị Tỳ-Khưu vây-quanh trước sau, đi về thành kia. Ông Thuần-Đà cùng quyến-thuộc cũng đi theo đức Như-Lai.

Nửa đường đức Thế-Tôn ngồi nghỉ dưới một gốc cây, Ngài bảo ông A-Nan: “Nay Tôi đau bụng quá!”. Ngài dựa vào ông A-Nan mà đi. Đi cách chỗ kia chưa được mấy, Ngài thổ-huyết lại trở lại dưới gốc cây cũ, Ngài bảo ông A-Nan: “Ông cầm cái áo Tăng-già-lê[44], gấp bốn trải xuống đất, Tôi muốn ngồi nghỉ đây, chứ không thể tiến lên được nữa!” Ông A-Nan vâng lời đức Phật dạy, làm y như thế.

Đức Thế-Tôn ngồi nghỉ dưới gốc cây và bảo ông A-Nan: “Nay Tôi khát nước, ông đến sông Ca-khuất-ta, kín ít nước sạch về cho Tôi uống!”.

Ông A-Nan bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế-Tôn! Vừa nãy có những người lái buôn cùng năm trăm cỗ xe qua sông ấy, sợ nước sông đục, không thể uống được!”

Ông A-Nan bạch như thế đến ba lần. Đức Phật bảo ông A-Nan: “Ông cứ đi đi!” Ông A-Nan cầm bát đi, đến trên bờ sông, thấy nước sông lắng trong, tâm rất sợ hãi, rởn cả mình-mẩy, chân lông, ông tự nghĩ rằng: “Vừa rồi ta thấy những người lái buôn cùng năm trăm cỗ xe qua sông này, ý hẳn còn đục, ngờ đâu lại trong, thành ra ta trái-nghịch lời sai khiến của Như-Lai!”.

Nghĩ rồi ông kín nước đem về dâng cúng Phật và nói lên rằng: “Lạ lắm, lạy đức Thế-Tôn! Vừa rồi con thấy những người lái buôn cùng năm trăm cỗ xe, trước sau qua sông, đáng lẽ trong vòng mười ngày, nước còn chưa trong, thế mà nhờ thần-lực của đức Thế-Tôn trong chốt-lát đã trong mát rồi!”

Đức Thế-Tôn liền bưng nước uống.

Bấy giờ, có một người con của Mãn-la tiên-nhân, tên là Phất-Ca-Sa, là đệ-tử của Ca-lan tiên-nhân. Ông này từ thành Cưu-Thi-Na, đến thành Ba-ba, giữa đường tình-cờ thấy đức Như-Lai ngồi nghỉ dưới gốc cây. Ông liền chắp tay vấn-tấn, rồi ngồi lui về một bên bạch Phật rằng: “Lạy Đức Thế-Tôn! Pháp xuất-gia, sự-nghiệp tọa-thiền là tối đệ-nhất, vì nó điều phục tình-căn, làm cho tâm không rối-loạn, chuyên-tinh tịch-tĩnh, không kinh sợ gì. Sao vậy? – Vì, tôi ghi nhớ: xưa kia tôi theo thầy tôi là Ca-lan tiên-nhân, đi trên đường-trường. Khi đã mỏi-mệt, chúng tôi ngồi nghỉ dưới gốc cây bên đường. Thầy tôi liền tọa-thiền tư-duy. Giữa lúc đó, có những người lái-buôn chở năm mươi cỗ xe qua trước, mà thầy tôi vẫn ngồi im-lặng, thân không lay động. Và, cứ như thế khá lâu, thầy tôi mới từ thiền-định tỉnh dậy. Tôi liền bạch với thầy tôi rằng: “Bạch thầy lúc thầy ngồi thiền tại đây, có những người lái-buôn cùng năm mươi cỗ xe qua trước, tiếng kêu như sấm, không biết thầy có nghe thấy không?” Thầy tôi đáp: “Ta không thấy gì cả.” Tôi lại hỏi: “Vậy thầy có nghe thấy tiếng xe đi không?” Thầy tôi cũng đáp là không nghe thấy. Tôi bạch: “Bạch thầy, nay trên áo thầy sở-dĩ có những bụi bám nhơ-nhớp, là do những xe kia đi qua, gây nên thế!” Khi ấy, tôi cho là rất lạ lùng và biết rằng: pháp tọa-thiền thực đáng kính-trọng, vì nó khéo điều-nhiếp được tình-căn, không làm rối loạn!”.

Đức Thế-Tôn đáp ông Phất-ca-sa rằng: “Sự ông vừa nói, không phải lạ-lùng. Sao vậy? Nếu có người không phải ngủ-say, cũng không phải nhập Diệt-tận-định[45], tâm đoan-chính, ngồi Thiền, lúc đó có năm trăm cỗ xe đi qua, người ấy vẫn không biết, không nghe thấy gì, như thế mới là lạ-lùng chứ!

Lại nữa, ông Phất-ca-sa! Đây cũng chưa phải là rất lạ. Nếu có người chính-niệm tọa-thiền, gặp lúc trời sấm-sét ầm ầm, sáng lóe, bấy giờ có hai anh em người đi cày, nghe tiếng kinh sợ ấy, tức thời chết tươi và bốn con trâu gần đấy cũng chết ngay, mà người ngồi thiền kia không biết, không nghe thấy gì, thế được gọi là lạ-lùng chăng? Ông Phất-ca-sa thưa: Lạy đức Thế-Tôn! Năm trăm cỗ xe qua trước không biết, không nghe, đã là lạ-lùng, phương chi lại sấm-sét, sáng lóe, ầm ầm động đất không biết, không nghe, thời là rất hiếm có!”

Đức Thế-Tôn bảo ông Phất-ca-sa: “Xưa kia ta chính tâm ngồi thiền, suy-nghĩ dưới một gốc cây ở thôn A-xa-ma. Lúc đó, có những người lái-buôn cùng năm trăm cỗ xe qua trước chỗ ta ngồi, ta suy-nghĩ trong thiền-định không biết, không nghe thấy gì. Những người lái-buôn kia, đi qua giờ lâu, Tôi mới xuất-định. Họ vừa đi vừa ngoảnh lại trông. Lúc họ xa trông thấy Tôi đứng dậy, họ ùa chạy lại, thấy cát bụi bám nhơ-nhớp trên áo Tôi, họ liền phủi đi và hỏi rằng: “Vừa rồi, chúng tôi cùng năm trăm cỗ xe đi qua đây, đức Thế-Tôn có trông thấy không? Tôi đáp: “Tôi không trông thấy!” Họ lại hỏi: “Đức Thế-Tôn nhắm mắt nên không trông thấy, nhưng, chắc là nghe thấy tiếng?” Tôi đáp: “Tôi cũng không nghe thấy tiếng!” Họ lại hỏi: “Vậy đức Thế-Tôn ngủ say hay là nhập Diệt-tận-định?” – Tôi đáp: “Tôi không ngủ say cũng không phải nhập Diệt-tận-định, Tôi chỉ ở trong thiền suy-nghĩ, nên không nghe, không thấy gì!” Họ nghe lời nói ấy của Tôi, họ cho là rất lạ-lùng, khen chưa từng có bao giờ và nói rằng: “Sức tọa-thiền được như thế đấy!” Tôi liền vì họ, nói cho họ nghe mọi pháp và những người lái-buôn kia, do nơi mọi pháp ấy, đều xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.

Lại nữa, ông Phất-ca-sa! Ngày trước Tôi ngồi một mình trong khoảnh ruộng bên thôn kia, lặng-lẽ suy-nghĩ thiền, chốc-lát tự-nhiên sấm-sét vang-giật, gió mưa chấn-động cả trời đất. Khi ấy có hai anh em người cày ruộng, chợt nghe thấy những tiếng ấy, đều cùng sợ mà chết; lại có bốn con trâu cũng đều chết tươi. bấy giờ, người trong thôn kia, nghe tin có hai người đi cày, nghe tiếng sét sợ chết, hoặc cha mẹ, vợ con, bạn-bè, họ-hàng hợp cùng những người trong thôn đi theo, khóc-lóc lại xem; lúc đó, Tôi mới ở trong thiền-định tỉnh dậy, thấy mặt đất đầy nước bùn, lại có nhiều người, tụ-tập gào khóc. Có một người đi lại, Tôi liền hỏi: “Sao lại có nhiều người tự-tập lại đây và khóc-lóc như vậy?” - Người kia đáp: “Vừa rồi đức Thế-Tôn không nghe biết tiếng sấm, sét ư?” Có hai anh em nhà kia trong thôn con, cày ruộng tại nơi đây, hai người đồng thời bị sét đánh chết và cả bốn con trâu cũng đều bị chết, sao mà đức Thế-Tôn không hiểu biết gì? Hay là, vừa rồi đức Như-Lai ngủ say, hoặc là Ngài nhập Diệt-tận-định ư? – Tôi đáp: “Không, vừa rồi Tôi không ngủ say cũng không nhập Diệt-tận-định, Tôi chính-tâm, im-lặng ngồi thiền, nên Tôi không nghe thấy đó?” Người kia nghe đức Phật nói lời ấy, cho là rất lạ-lùng, khen chưa từng có bao giờ. Tâm họ tự-niệm: “Tọa-thiền có năng-lực như thế!” Tôi liền vì họ, nói cho họ nghe mọi pháp. Họ nghe pháp rồi, do trong những pháp ấy, họ xa-lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.

Bấy giờ, ông Phất-ca-sa, nghe đức Phật nói lời ấy, sinh tâm hiếm có, bạch đức Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Trước đây khi tôi thấy thầy tôi ngồi thiền, năm mươi cỗ xe đi qua, không nghe, không biết gì, tôi cho là lạ-lùng; nay đức Như-Lai nói hai việc trên đây, gấp trăm, nghìn, vạn lần, không gì có thể so-sánh được với năng-lực Thiền-định không thể nghĩ, bàn được của Như-Lai!” Bạch rồi, ông theo Phật thụ Tam-quy-y. Đức Như-Lai lại vì ông nói cho nghe mọi pháp nhiệm-mầu. Ông nghe pháp rồi, tâm-ý khai-ngộ, xa lìa trần-cấu, được pháp-nhãn-tịnh.

Ông ấy liền bảo người đi hầu: “Ngươi đi cầm hai tấm vải tốt màu vàng ròng của ta, đem lại đây cho ta, ta muốn dâng cúng Phật!” Người hầu vâng lời, lấy vải đem đến; ông Phất-ca-sa tay cầm tấm vải, quỳ thẳng trước Phật, bạch rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Nay con đem tấm vải này dâng lên Thế-Tôn, kính mong Thế-Tôn thương con, nhận cho con!”

Đức Thế-Tôn đáp lời ông Phất-ca-sa: “Tôi nay vì lòng chân-thành của ông, nhận cho ông một tấm, còn một tấm ông nên đem cúng ông A-Nan! Sao vậy? – Vì, ông A-Nan đêm ngày hầu cận bên Tôi, vả lại, ngày nay ông trông nom sự đau yếu của Tôi, nếu có thí-chủ, bố-thí cho người đau yếu cùng người trông nom người đau yếu ấy, thế gọi là đầy đủ sự bố-thí lớn-lao (mãn-túc đại-thí).”

Ông Phất-ca-sa nghe đức Phật nói lời ấy, vui mừng hớn-hở, liền để một tấm vải dưới chân Phật và cầm một tấm tới chỗ ông A-Nan, quỳ thẳng, bạch rằng: “Nay tôi đem tấm vải này cúng Tôn-giả, kính mong Tôn-giả nhận cho!” Ông A-Nan đáp: “Quý hóa thay, quý hóa thay! Nay ông tin lời đấng Thiên-Nhân-Sư, tôi mong ông được an-lạc mãi-mãi, tôi xin nhận vật bố-thí của ông!”

Sau đó ông Phất-ca-sa, trở về nơi đức Phật, đức Phật lại vì ông ấy, nói cho nghe mọi pháp. Ông ấy nghe pháp rồi, chứng được quả A-na-hàm. Khi ấy, ông Phất-ca-sa lại bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế-Tôn! Nay con muốn xuất-gia trong Phật-pháp.” Đức Phật liền gọi: “Thiện-lai Tỳ-Khưu!”[46] Lúc đó râu tóc tự sạch trụi, áo ca-sa[47] mặc vào mình, thành Sa-môn, chứng quả A-la-hán.

TOÁT-YẾU

Sau lúc phó-trai tại nhà ông Thuần-Đà, đức Phật thấy người đau, Ngài liền cùng ông A-Nan, các vị Tỳ-Khưu và quyến-thuộc ông Thuần-Đà đi về thành Cưu-thi-na.

Nửa đường Ngài đau bụng, thổ huyết, đành nghỉ lại dưới một gốc cây.

Ngài khát nước. Ông A-Nan đến sông Ca-khuất-ta kín nước về Ngài uống.

Tình-cờ, con của Mãn-la tiên-nhân, tên là Phất-ca-sa, đệ-tử của Ca-lan tiên-nhân, đi từ thành Cưu-thi-na đến thành Ba-ba, gặp Ngài tại đây.

Sau khi vấn-tấn đức Phật, ông tán-dương sự-nghiệp tọa-thiền là tối đệ-nhất, điều-phục được tình-căn, tâm không rối-loạn, không kinh sợ. Ông nói lại sự nghiệp ấy của thầy ông: một hôm ngồi thiền dưới gốc cây bên đường, năm mươi cỗ xe đi qua không biết.

Đức Phật bảo: Như thế chưa thấy gì làm lạ. Ngày xưa Tôi ngồi thiền dưới một gốc cây tại thôn A-xa-ma, năm trăm cỗ xe của người lái buôn đi qua, Tôi không nghe thấy gì. Hơn thế nữa, một hôm cũng ở thôn kia, Tôi ngồi thiền, trời mưa, sét đánh chết 2 người đi cày và 4 con trâu, mà Tôi cũng không nghe thấy chi!

Ông Phất-ca-sa nghe đức Phật nói thế, ông rất thán-phục và xin thụ Tam-quy.

Tiếp đó, ông dâng cúng Phật một tấm vải vàng tốt và đem cúng ông A-Nan một tấm, theo lời Phật chỉ-giáo.

Và, tới đây ông xin xuất-gia theo Phật-pháp, thành bậc Sa-môn, chứng quả A-la-hán.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19888)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29022)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20726)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19483)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30558)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36493)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33286)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35622)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21033)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21955)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25307)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25832)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31313)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18598)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25179)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23813)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28979)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20911)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31476)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25587)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29764)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22556)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25769)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23323)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25775)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23778)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40642)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23385)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22498)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22124)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23537)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16994)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23313)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24361)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41156)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19033)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20530)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27761)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38175)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34104)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36824)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24051)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29261)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60213)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27656)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68790)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24573)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24525)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22758)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26410)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26585)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20865)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20105)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27606)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46518)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53610)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23653)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21136)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25632)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29317)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant