Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

17. Đức Phật nhập Niết Bàn

09 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 11087)
17. Đức Phật nhập Niết Bàn

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt

XVII. ĐỨC PHẬT NHẬP NIẾT-BÀN

Ngay khi ấy đức Như-Lai vào Sơ-thiền; ra Sơ-thiền, vào Nhị-thiền; ra Nhị-thiền, vào Tam-thiền; ra Tam-thiền, vào Tứ-thiền; ra Tứ-thiền, vào Không-xứ; ra Không-xứ, vào Thức-xứ; ra Thức-xứ, vào Vô-sở-hữu-xứ; ra Vô-sở-hữu-xứ, vào Phi-tưởng, phi-phi-tưởng-xứ; ra Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ, vào Diệt-tận-định.

Lúc đó, ông A-Nan, đã thấy đức Như-Lai im-bặt không nói, thân-thể chi-tiết không dao-động, liền sa-lệ nói rằng: “Đức Thế-tôn nay đã nhập Niết-Bàn rồi!”

Bấy giờ ông A-nâu-lâu-đà (Aniruddha) bảo ông A-Nan: “Ngay bây giờ đức Như-Lai chưa nhập Niết-Bàn đâu! Sở-dĩ Ngài im-bặt, thân không dao-động, chính là Ngài nhập Diệt-tận-định!”

Đức Thế-Tôn ra Diệt-tận-định, lại trở vào Phi-tưởng phi-phi-tưởng-xứ và lần-lượt cho đến vào Sơ-thiền. Rồi Ngài lại ra Sơ-thiền, vào Nhị-thiền; ra Nhị-thiền, vào Tam-thiền; ra Tam-thiền, vào Tứ-thiền. Và, ngay nơi ấy Ngài nhập Niết-Bàn.

Khi ấy, ông A-nâu-lâu-đà bảo ông A-Nan: “Đức Thế-Tôn đã ở nơi Tứ-thiền nhập Niết-Bàn rồi!

Ông A-Nan cùng bốn bộ-chúng, nghe ông A-nâu-lâu-đà nói lời ấy rồi, thương-xót, kêu-khóc, nghẹn-ngào, buồn-bã ngất lăn ra đất. Trong chúng ấy, hoặc có người khoa tay, bứt đầu, đấm ngực gào to, cùng bảo nhau rằng: “Con mắt của thế-gian mất đi, nhất đán sao chóng vậy thay! Từ nay trở đi, hết thảy chúng-sinh, ai là người lãnh-đạo và Nhân, Thiên sẽ giảm đi, đường ác ngày càng thêm!”

Lúc đó, Thiên, Long tám bộ trong hư-không, nước mắt chảy chan-chứa như mưa dào, bảo lẫn nhau rằng: “Từ nay ai là người quy-y của chúng ta; chúng ta cũng như đứa trẻ mất mẹ hiền; ba đường ác, ngày mở rộng thêm, cửa giải-thoát đóng kín nhiều lần! Hết thảy chúng-sinh, trầm-luân bể khổ, cũng như người đau xa-cách lương-y, như người mù mất người dắt-dẫn! Chúng ta xa-cách đấng vô-thượng Pháp-vương, giặc phiền-não xâm-bức hàng ngày!”

Xướng lên lời ấy rồi, họ buồn-bã, áo-não, không tự hãm được.

Bấy giờ, các người phái Lực-sĩ, trong thành Cưu-thi-na, đều là những người khỏe-mạnh, như con Hương-tượng, thế mà khi họ trông thấy đức Như-Lai nhập Niết-Bàn rồi, thân-hình họ tiều-tụy, như người mới phát bệnh.

Đương lúc đó, cõi đất rung-động, trống trời bỗng kêu, sóng bốn bể lớn giồ-giập lung-tung, ngọn núi Tu-Di tự-nhiên rung ngả, gió cuồng bốc mạnh, rừng gỗ gẫy tung, dây-nhợ héo-khô, sợ-kinh khác lạ!

Khi ấy, Đại-phạm thiên-vương nói bài kệ rằng:

Quá-khứ và vị-lai,
Cùng ngay trong hiện-tại;
Không có chúng-sinh nào,
Không hướng về vô-thường.
Như-Lai: Thiên-Nhân-Tôn,
Thân kim-cương kiên-cố;
Còn không khỏi vô-thường,
Huống là những người khác!
Hết thảy mọi chúng-sinh,
Mến-tiếc bảo-vệ thân;
Sức thêm hương hoa khác,
Không biết sẽ hủy-diệt!
Như-Lai thân sắc vàng,
Trang-nghiêm bằng tướng tốt,
Hội-hợp cũng xả-ly,
Ứng-nhập Bát-Niết-Bàn.
Dứt hẳn mọi phiền-não,
Thành Nhất-thiết-chủng-trí;
Vẫn còn không khỏi được,
Huống người phiền-não buộc!

Tếp đó, Thiên-Đế-Thích nói bài kệ rằng:

Tính của mọi hành-tướng,
Thực là pháp sinh-diệt;
Đấng Lưỡng-Túc [29] tối-tôn,
Cũng về nơi diệt-tận.
Lửa ba độc [30] cháy bừng,
Thường thiêu-đốt chúng-sinh;
Không có mây “Đại-Bi”,
Gì cho mưa tắt được?

Ông A-nâu-lâu-đà cũng nói bài kệ:

Ngày nay đức Như-Lai,
Mọi căn không dao-động;
Tâm ý hội các pháp,
Mà bỏ nơi thân này.
Điềm-nhiên bặt lo-nghĩ,
Cũng không tiếp-thụ gì;
Như đèn tắt, sáng hết,
Như-Lai diệt cũng vậy!

Tới đây, ông A-Nan liền nói tiếp bài kệ:

Cõi đất bỗng động rung,

Gió cuồng bốn mặt bốc;
Sóng biển vỗ lung-tung,
Núi Tu-Di chuyển, ngả.
Tâm Thiên, Nhân buồn, khổ,
Nước mắt khóc như mưa;
Thảy đều sinh sợ-hãi
Như bị Phi-nhân [31] giữ:
Do Phật nhập Niết-Bàn,
Nên có việc như vậy!

Bấy giờ, có các vị Tỳ-Khưu cùng Nhân, Thiên ở trong chúng chưa đắc-đạo, thấy đức Như-Lai nhập Niết-Bàn rồi, tâm sinh áo-não, vật-vã ra đất; người đắc-đạo rồi, than hoài về cái khổ của thế-gian vô-thường, thương-xót, kêu khóc không tự-hãm được.

Lúc đó, ông A-nâu-lâu-đà, bảo các vị Tỳ-Khưu cùng cả Nhân, Thiên rằng: “Các vị không nên sinh tâm ưu-não quá, trước đây Như-Lai đã vì các vị nói rõ là tính-tướng của các sự-vật đều như thế, sao các vị còn cố thương khóc vậy ư?”

Khi ấy ông A-Nan liền phổ-cáo tất cả mọi người từ bốn phương xa lại rằng: “Đức Như-Lai nay đã nhập Niết-Bàn rồi!” Mọi người nghe ông A-Nan nói thế, thương-xót, kêu-khóc, buồn-bã, áo-não nghẹn-ngào nói với ông A-Nan: “Nay chúng-nhân tại đây, quá đông-đảo, chật-chội, đến ba mươi hai do-tuần, cũng đều đầy-ních, vậy kính xin Tôn-giả cho chúng tôi được lần-lượt tới trước trông thấy tôn-dung đức Như-Lai để lần cuối cùng chúng tôi được chiêm-ngưỡng, lễ bái và cúng-dàng. Vì, Như-Lai ra đời khó được gặp gỡ, như hoa Ưu-Đàm bao thời, bao thời mới hiện. Nay chúng tôi thân ở nơi đức Thế-Tôn nhập Niết-Bàn đây, xin Tôn-giả thương xót chúng tôi, để cho chúng tôi được trông thấy chân-dung Phật!”

Ông A-Nan nghe lời chúng-nhân, tâm tự suy-nghĩ: “Đức Như-Lai ra đời, rất khó được gặp, được cúng-dàng lần cuối cùng cũng là rất khó, nay ta nên cho những ai cúng-dàng Phật trước? Nay ta nên cho các vị Tỳ-Khưu-Ni cùng Ưu-bà-di, được tới trước cúng-dàng thân Phật. Sao vậy? - Họ là những người nữ-lưu yếu-ớt, vả lại, từ xưa tới nay họ không thường được đến chốn đức Phật. Do nhân-duyên ấy, ta cho họ tới trước!”

Ông nghĩ thế rồi, liền phổ-xướng cho các Tỳ-Khưu-Ni, cùng Ưu-bà-di, đều được đến trước nơi thân đức Như-Lai nhập Niết-Bàn.

Các Tỳ-Khưu-Ni cùng vô-lượng Ưu-bà-di, đều cùng nhau đến chốn Phật. Đến nơi họ trông thấy đức Như-Lai nhập Niết-Bàn rồi, họ kêu-khóc áo-não, đi nhiễu, lễ-bái và cúng-dàng mọi thứ.

Khi ấy, có một bà Ưu-bà-di nghèo-cùng, đã một trăm tuổi, bà thấy những vợ cùng con gái lớn, nhỏ, của các phái Bà-la-môn, Sát-lỵ, trưởng-giả, cư-sĩ, đem hương hoa tốt, mọi thứ cúng-dàng Phật, bà tự thương mình nghèo thiếu, riêng chịu mất nguyện tốt nơi đây, tâm bà tự nghĩ: “Đức Như-Lai ra đời rất là khó gặp, cúng-dàng Ngài lần cuối cùng cũng lại rất khó, mà nay ta bần-cùng, khánh-kiệt, không lấy gì biểu-lộ tâm-thành mình được!” Bà nghĩ thế rồi, càng thêm thương-xót, cảm-động, bà tới chỗ chân Phật, tâm áo-não quá, khóc-lóc thướt-mướt, nước mắt chảy xuống chân Phật, làm nhơ chân Phật, bà nguyện: “Nguyện con đời sau sinh ra nơi nào, con thường được thấy Phật!”

Các Tỳ-Khưu-Ni cùng Ưu-bà-di, cúng-dàng xong rồi, liền về chỗ mình.

Bấy giờ, ông A-Nan, lại phổ-cáo cho mọi người khác biết rằng các Tỳ-Khưu-Ni cùng Ưu-bà-di cúng-dàng xong rồi, các vị có thể lần-lượt tới trước thân Phật cúng-dàng. Mọi người nghe rồi, lần-lượt đến nơi thân Phật nhập Niết-Bàn. Đến nơi họ trông thấy đức Như-Lai nhập Niết-Bàn rồi, kêu-khóc vật-vã, tâm rất sầu-não, họ đem mọi đồ cúng-dàng, cúng-dàng lên Phật.

TOÁT-YẾU

Khi ấy, đức Như-Lai vào ra Tứ-thiền-định, Tứ-không-xứ-định, Diệt-tận-định hai lần. Lần thứ ba Ngài vào ra từ Sơ-thiền đến Tứ-thiền là Ngài nhập Niết-Bàn tại đấy. Ông A-nâu-lâu-đà bảo ông A-Nan: “Đức Thế-Tôn nhập Niết-Bàn tại Tứ-thiền rồi!”

Lúc đó, đại-chúng buồn-rầu, vật-vã, kêu-khóc, than-thở; chư thiên khóc-lóc nước mắt chảy như mưa dào; phái Lực-sĩ cũng buồn-bã, lả-lướt như người mới đau. Cả đến cõi đất cũng rung-động, núi Tu-Di cũng nghiêng-ngả, sóng bể cũng vỗ tung, gió cuồng bốc mạnh, cây cỏ gẫy, héo… Và, ai ai cũng đều kinh sợ.

Tiếp đến, Đại-Phạm-thiên-vương nói bài kệ về lẽ vô-thường, không ai thoát được. Thiên-đế-thích cũng nói về lẽ ấy và than-tiếc chúng-sinh ngày nay bị lửa 3 độc cháy, không còn nước Đại-Bi rưới tắt. Ông A-nâu-lâu-đà nói về đức Như-Lai xả thân này cũng như đèn tắt sánh sáng hết. Ông A-Nan nói cái cảnh buồn-rầu của tất cả khi đức Phật nhập Niết-Bàn. Các vị chưa đắc-đạo, thương-xót áo-não, các vị đắc-đạo rồi, than lẽ vô-thường của thế-gian!

Ông A-Nan phổ-cáo cho mọi người biết là đức Như-Lai nhập Niết-Bàn rồi!

Ông cho các Tỳ-Khưu-Ni, các Ưu-bà-di đi vào lễ Phật, cúng-dàng trước. Trong số ấy có bà lão nghèo vào lễ Phật, khóc, chảy nước mắt xuống chân Phật. Rồi đến các người nam-giới khác, lần-lượt vào lễ-bái, cúng-dàng Phật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23950)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41208)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27491)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26545)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29304)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33174)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25759)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31298)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38547)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21417)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44237)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29809)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42183)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45733)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23946)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29240)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33903)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27673)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21056)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28839)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21560)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28054)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22057)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21420)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19486)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19822)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19232)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29165)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23643)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33162)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31830)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21542)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19363)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24809)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21745)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22368)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29123)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20464)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23506)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35300)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24538)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant