Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Đạt Lai Lạt Ma: Vấn đáp về đấng tạo hóa

14 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 20123)
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Vấn đáp về đấng tạo hóa

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: VẤN ĐÁP VỀ ĐẤNG TẠO HÓA
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữTuệ Uyển – 08/05/2011

blankHỎINgài đã từng nói rằng theo triết lý Đạo Phật không có đấng Tạo Hóa, không có Thượng Đế tạo dựng, và điều này có thể bắt đầu làm cho nhiều người chấm dứt niềm tin trong quan kiến thiêng liêng. Ngài có thể giải thích sự khác biệt giữa Đức Phật Nguyên Sơ Kim Cương Thừa và một Thượng Đế Tạo Hóa không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi thấu hiểu Đức Phật Nguyên Sơ, cũng được biết như Đức Phật Phổ Hiền, là thực tại tối hậu, thế giới của Pháp Thânkhông gian của tính không – nơi mà tất cả mọi hiện tượng, thanh tịnhnhiễm ô, là hòa tan. Đây là sự giải thích được dạy bởi Kinh điểnMật điển. Tuy nhiên, trong phạm vi câu hỏi này, chỉ truyền thống mật tông tantra giải thích Pháp Thân trong dạng thức của Linh quang bản nhiên, (hay tịnh quang bản nhiên), bản chất tối hậu của tâm; điều này dường như bao hàm tất cả mọi hiện tượng, luân hồiniết bàn, sinh khởi từ cội nguồn trong suốt và rực rở này. Ngay cả Tân Phái Diễn Dịch cũng đã đi đến kết luận rằng “thể trạng giải thoát” của một hành giả Đại Du Già – Đại Du Già bao hàm ở đây là thể trạng của hành giả đã đạt đến tầng bậc trong thiền quán nơi mà những kinh nghiệm vi tế nhất của linh quang đã được thân chứng – mà điều ấy cho đến khi nào hành giả tiếp tục trong không gian căn bản này người ấy sẽ duy trì sự tự do hoàn toàn khỏi bất cứ ngăn che chướng ngại nào của tâm, và chìm sâu trong thể trạng của đại lạc.

Do thế, chúng tôi có thể nói rằng, cội nguồn căn bản ấy, linh quang, là gần với khái niệm Đấng Tạo Hóa, vì tất cả mọi hiện tượng, cho dù chúng thuộc luân hồi hay niết bàn, đều phát khởi từ trong ấy. Nhưng chúng tôi phải hết sức cẩn thận trong việc nói về cội nguồn này, chúng tôi không được dẫn vào trong sai lầm. Tôi không muốn nói rằng có một sự hiện hữu ở nơi nào đấy, như là ở đấy, có một loại linh quang tập hợp, tương tự khái niệm không phải Phật Giáo về Phạm thiên như một nền tảng. Chúng tôi không được thần tượng, sùng bái không gian rực rỡ này. Chúng tôi phải thấu hiểu rằng khi chúng tôi nói về linh quang tối hậu hay cố hữu, là chúng tôi đang nói trên một mức độ cá nhân[1].

Giống như thế, khi chúng tôi nói về nghiệp báo như nguyên nhân của vũ trụ, chúng tôi loại trừ khái niệm của một tổng thể đặc thù gọi là nghiệp tồn tại một cách hoàn toàn độc lập. Đúng hơn, những dấu vết nghiệp tập thể - cộng nghiệp, và nghiệp cá thể - biệt nghiệp, là nguyên nhân ban sơ của việc hình thành nên một thế giới. Trong phạm vi mật tông, khi chúng tôi nói rằng tất cả các thế giới xuất hiện ra từ linh quang, chúng tôi không quán tưởng cội nguồn này như một thực thể đặc thù, mà như linh quang tối hậu của mỗi chúng sinhChúng tôi cũng có thể, trên căn bản của sự thanh tịnh cốt yếu của nó, thấu hiểu rằng linh quang này là Đức Phật Nguyên Sơ. Mọi tầng bậc tạo nên sự sống của mỗi chúng sinh – chết, trung ấm thân, và tái sinhđại diện không gì hơn sự biểu hiện đa dạng năng lực của linh quang. Nó là cả tâm thứcnăng lượng vi tế nhất. Linh quang càng mất sự vi tế của nó bao nhiêu, chúng ta tiếp nhận những kinh nghiệm biểu lộ sự định hình càng thô thiển hơn bấy nhiêu.

Trong cách này, chết và trung ấm thân là những thời khắc nơi mà những biểu lộ thô thiển bắt nguồn từ linh quang được tái hòa tan. Vào lúc chết, chúng ta trở lại cội nguồn nguyên sơ, và từ đấy có một thể trạng hơi thô thiển hơn nổi lên để hình thành trạng thái trung ấm trước khi tái sinh. Tại trạng thái tái sinh, linh quang hiển hiện trong sự hóa thân vật lý. Vào lúc chết chúng ta trở lại nguồn cội này. Và tiếp diễn như thế. Khả năng để thực chứng linh quang, cũng gọi là Đức Phật Nguyên Sơ, tương đương với sự thân chứng niết bàn, trái lại bản chất vô minh si ám khiến chúng ta lang thang vần xoay trong những thế giới khác nhau của vòng luân hồi sinh tử (gồm sáu cõi là địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, người, a tu la, và cõi thiên).

Đây là việc chúng tôi hiểu khái niệm Đức Phật Nguyên Sơ như thế nào. Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng, nếu nhận thức điều này như một sự hiện hữu độc lập và tách biệt với sự không có bắt đầu của thời gian (vô thủy). Nếu chúng ta đã phải chấp nhận khái niệm của một tạo hóa độc lập, những giải thích trong Thích Lượng Luận, “Tóm Lược Những Tri Thức Vững Chắc” của Pháp Xứng, và trong chương thứ chín tác phẩm của Tịch Thiên, đã hoàn toàn bác bỏ sự tự tồn tại của tất cả mọi hiện tượng, sẽ bị phủ nhận. Đến lượt điều này sẽ bác bỏ khái niệm Đức Phật Nguyên Sơ. Quan điểm của Đạo Phật không chấp nhận những giá trị xác định không đứng vững trên sự thẩm tra hợp lý. Nếu một kinh điển diễn tả Đức Phật Nguyên Sơ như một thực thể độc lập, thì chúng ta phài có thể làm sáng tỏ sự thừa nhận này mà không cần phải chấp nhận nó một cách lý thuyết. Chúng ta gọi loại kinh điển này là kinh điển “có thể giải thích được” (kinh bất liễu nghĩa).

HỎIQuan tâm trong những khám phá của vật lý học thiên thể hiện đại và thuyết vụ nổ lớn “Big bang” khơi mở cả một sự hấp dẫn lớn trong vũ trụ và một cuộc thăm dò điều tra bởi những thành viên trong thế hệ của chúng ta về cội nguồn của họ, số phận của họ, và ý nghĩa sự tồn tại của họ. Thuyết “Big bang”đã có một tác động nổi bật trong cung cách nhìn vào vấn đềbản chất tự nhiên; nó đã giới thiệu những sáng kiến nhận thức mới đáng kể. Sự hình thành những cấu trúc của vũ trụ, với sự thể hiện chức năng phụ thuộc tương liên (duyên sinh), và với sự nghiên cứu tiếp tục để khơi mở, dường như là một cội nguồn bất tận của kỳ diệu. Giống như tất cả những truyền thống tâm linh, Đạo Phật chuyển tải một sự huyền bí vũ trụ. Tuy nhiên, Đạo Phật phủ nhận quan điểm về đấng tạo hóa. Tại sao?

Hầu hết các nhà khoa học phương Tây nghĩ rằng sự sống và tâm thức là một kết quả diệu kỳ của sự tiến hóa vật chất của vũ trụ, và tuy thế họ không biết làm thế nào cũng như không biết tại sao vấn đề nảy ra trong một cung cách như vậy lại hoàn thành những điều kiện cần thiết để làm nên sự sống và tâm thức. Những gì người ta biết là những điều kiện này rất là nghiêm ngặt, tuy thế đã hoàn tất trong vũ trụ của chúng ta trong một cung cách không thể tưởng tượng nổi. Ngài có một quan điểm rất khác biệt với đề tài này. Do vậy, ngài có thể vui lòng nói với chúng tôi về tâm thức trong sự liên hệ của nó với vật chấtvũ trụ không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tại sao không thể có sự sáng thế trong Đạo Phật? Như được nói rằng người ta không thể tìm thấy chúng sinh trong sự hình thành vũ trụ vì một lý do căn bản rằng những nguyên nhân không có sự bắt đầu (vô thỉ). Nếu có sự bắt đầu của vũ trụ, cũng sẽ có sự bắt đầu của tâm thức. Nếu chúng ta chấp nhận một sự bắt đầu của tâm thức, chúng ta cũng phải chấp nhận rằng nguyên nhân của nó có một sự khởi đầu, một nguyên nhân đột khởi sản sinh tâm thức; điều này sẽ đưa đến nhiều câu hỏi to lớn khác. Nếu tâm thức đã sinh khởi mà không có nguyên nhân, hay từ một nguyên nhân thường còn, nguyên nhân ấy sẽ phải tồn tại trên một căn bản thường hằng, luôn luôn, hay hoàn toàn không hiện hữu, mãi mãi. Thực tế rằng một hiện tượng tồn tại từng thời điểm chứng tỏ rằng nó tùy thuộc trên nhân duyên (nguyên nhânđiều kiện). Khi tất cả mọi điều kiện được gặp gỡ, hiện tượng được sản sinh. Khi nhưng nguyên nhân đó vắng mặt hay không hoàn toàn, hiện tượng sẽ không xuất hiện. Như những nguyên nhân không có bắt đầu và trải ngược đến vô cùng, điều giống như thế cũng áp dụng cho chúng sinh. Sự sáng thế của tạo hóa vì thế không thể đứng vững.

Bây giờ hãy đề chúng ta lưu tâm đến một hiện tượng đặc thù, thí dụ một sông băng (glacier): nó thật sự có sự bắt đầu. Nó được tạo ra như thế nào? Thế giới bên ngoài xuất hiện như một kết quả của những hành vi của chúng sinh sử dụng thế giới này. Những hành vi này, hay nghiệp báo, lần lượt sinh khởi trong những khuynh hướng và động cơ của những chúng sinh ấy, những kẻ chưa nắm lấy được sự kiểm soát tâm thức của chính họ.

“Đấng tạo hóa của thế giới”, một cách căn bản, là tâm thức. Trong kinh điển, tâm thức được diễn tả như một tác nhân. Trong ấy nói rằng, tâm thức không có sự khởi đầu, nhưng chúng ta phải phân biệt ở đây giữa tâm thức thô và tâm thức vi tế. Nhiều tâm thức thô xuất hiện phụ thuộc trên những tập họp uẩn vật lý, của thân thể. Đây là bằng chứng khi chúng ta lưu tâm đến những thần kinh khác biệt và chức năng của não bộ, nhưng chỉ vì những điều kiện vật lý được thấy không có nghĩa là điều này đủ để sản sinh một nhận thức. Nhằm để cho một nhận thức là điều sẽ có năng lực để phản chiếu và biết một đối tượng sinh khởi, nó phải có một nguyên nhân có cùng thể chấtNguyên nhân có cùng thể chất nền tảng, của cùng vật chất như kết quả của nó, trong trường hợp này sẽ là tâm thức vi tế. Đấy là tâm thức giống nhau này hay tâm vi tế mà chính nó sẽ thâm nhập những tế bào của cha mẹ tại thời khắc thụ thai. Tâm vi tếthể không có sự bắt đầu. Nếu nó có một sự bắt đầu, tâm thức sẽ phải được sinh ra với điều gì đấy không phải là tâm thức. Theo mật điển Thời Luân (Kalachakra Tantra), người ta phải ngược về những hạt không gian (vi trần) để tìm ra những nguyên nhân căn bản cùng thể chất cua thế giới vật lý ngoại tại cũng như của thân thể chúng sinh.

Vũ trụ học Phật Giáo thiết lập chu trình của vũ trụ trong cung cách sau đây: đầu tiên có một thời điểm cấu tạo (thành), rồi có thời gianvũ trụ tồn tại (trụ), rồi một thời gian khác mà nó bị phá hủy (hoại), theo sau bởi một thời điểm của trống rỗng (không) trước khi cấu tạo một vũ trụ mới. Suốt thời gian của sự trỗng rỗng này, hạt không gian tồn tại, và từ những hạt không gian này một vũ trụ mới sẽ được hình thành. Chính trong những hạt không gian này chúng ta thấy nguyên nhân nền tảng cùng thể chất của toàn thể thế giới vật lý. Nếu chúng ta muốn diễn tả cấu tạo của vũ trụthân thể vật lý của con người, tất cả chúng ta cần làm là phân tích và thấu hiểu cung cách mà trong ấy khả năng tự nhiên của của những hóa chất khác nhau và những yếu tố khác cấu thành vũ trụ ấy đã có thể tạo hình từ những hạt không gian này. Trên căn bản khả năng đặc thù của những hạt này mà cấu trúc của vũ trụ này và của thân thể con người hiện diện trong ấy đã xảy ra. Nhưng từ thời khắc mà những yếu tố tạo thành thế giới bắt đầu làm rõ lên những kinh nghiệm khác nhau của khổ đau và hạnh phúc trong những chúng sinh, chúng ta phải giới thiệu khái niệm nghiệp báo – đấy là, những hành vi tích cựctiêu cực đã diễn ra và tích tập trong quá khứ. Thật khó để mà quyết đoán nơi nào mà những biểu hiện tự nhiên khả năng của những yếu tố vật lý chấm dứttác động của nghiệp báo bắt đầu – nói cách khác, kết quả những hành vi quá khứ của chúng ta – Nếu chúng ta tự hỏi mối liên hệ gì có thể có giữa nghiệp báo và môi trường ngoại tại này được hình thành bởi những định luật tự nhiên, thì đấy là lúc để giải thích nghiệp báo là gì.

Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần của là ý chí hay chủ tâm (ý). Cũng hiện hữu những nghiệp báo thân thể (thân) và lời nói (khẩu). Để thấu hiểu mối liên hệ giữa những nghiệp báo thân, miệng và ý này cùng thế giới vật chất, chúng ta phải liên hệ đến mật điển tantra. Mật điển Thời Luân đặc biệt giải thích rằng, trong thân thể chúng ta có thể được tìm thấy tại những mức độ thô, vi tế, và cực kỳ vi tế, năm yếu tố tạo nên vật chất của thế giới ngoại tại. Vì thế, trong phạm vi này, tôi tin rằng, chúng ta phải hình dung ra sự nối kết giữa nghiệp báo thân, miệng và ý cùng những yếu tố ngoại tại

The material on this page has been collected from the recent book, "Beyond Dogma: The Challenge of the Modern World", (c) 1996 North Atlantic Books, translated by Alison Anderson and Marianne Dresser from talks given during His Holiness's visit to France end 1993. 
E-MAIL: All enquiries, comments and suggestions welcome.

Philosophical questions on Creation
http://hhdl.dharmakara.net/hhdlquotes22.html
Ẩn Tâm Lộ ngày 12/05/2011

 


[1] Sự ngộ đạo, tu đạochứng đạo của mỗi cá nhân.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27172)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21765)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20429)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24740)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30971)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23982)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27761)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26506)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21301)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23218)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38119)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19951)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19038)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22788)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29563)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20634)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18851)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19649)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20149)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19950)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18112)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22923)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34163)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16410)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39241)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26057)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20095)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18847)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24052)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29113)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30946)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20676)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26252)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19816)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30026)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20215)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15144)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15827)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23870)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19846)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant