Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 5: Lợi Ích Học Phật

25 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8328)
Phần 5: Lợi Ích Học Phật

HỌC PHẬT NÊN BIẾT
學佛須知
Dịch Việt: Thích Nguyên Thành

Phần V.

Lợi Ích Học Phật

Pháp Sư Kim Minh

 

Nhu cầu nhân loại, ngoài lương thực vật chất, còn cần lương thực tinh thần. Trong nhiều loại lương thực tinh thần, Phật Pháp là lương thực tinh thần tốt nhất. Người học Phật có thể đạt được nhiều lợi ích. Hiện tại, tôi muốn đề cặp những lợi ích trong học Phật, có 3 điểm lợi ích tương đối dễ hiểu là: 

  1. 1. Nhận Thức Nhân Sinh:

Con người từ lúc sanh ra đến già chết, bận rộn không biết bao nhiêu điều. Vì sao bận rộn? Nếu nói cuộc sống ăn mặc đi đứng, tất yếu phải có tiền, mới có thể giải quyết vấn đề cuộc sống. Như vậy, vấn đề cuộc sống ăn mặc đi đứng, sau khi đã giải quyết,thì không cần phải bận rộn nữa, nhưng người ta vẫn bận rộn. Bởi vì thời gian này, cuộc sống con người lại có nhu cầu tiến bộ. Vì để thỏa mãn ham muốn quá cao, cho nên lại cần phải liều mạng đi tìm kiếm. Nhưng “cuộc sống giống như con ông hút mật hoa, bay nam bay bắc, bay đông bay tây. Hút được trăm loài hoa, sau khi trở thành mật, hoàn toàn vất vả và vô ích”. Từ xưa đến nay con người luôn bận rộn, suốt ngày bận rộn hướng bên ngoài tìm kiếm, không nghĩ đến nghiên cứu những vấn đề này. Phật Pháp, là con thuyền từ bi trong biển cả mênh mông của con người. Dạy con người nhận thức kết quả cuối cùng của sanh tử là làm sao quay trở lại, bày tỏ chân đế cuộc sống, mang cuộc sống con người từ bờ phiền não bên này vận chuyển đến bờ an lạc bên kia.

Thời Triều Thanh Trung Quốc, Hoàng Đế Thuận Trị có nghiên cứu Phật Giáo. Ngài ao ước cuộc sống của Người Xuất Gia, muốn Xuất Gia tu hành, Ngài đã từng làm một bài kệ Ý vị thật sâu xa: “Vị từng sanh ngã thùy thị ngã? Sanh ngã chi thời ngã thị thùy? Trưởng đại thành nhân phương thị ngã, hiệp nhãn mông lung hựu thị thùy” (chưa từng sanh tôi, ai là tôi? khi tôi sinh ra, tôi là ai? lớn lên thành người mới là tôi? lờ mờ nhắm mắt lại là ai?)(Chưa sanh, ai chính là ta? Sanh rồi chẳng biết ta là ai đây? Lớn lên, Ta chính thân này? Rồi khi nhắm mắt bây giờ là ai?)  Bài kệ này, đã đề cập về vấn đề nhân sinh, sanh từ đâu đến, chết đi về đâu? Người hiểu được Phật Pháp, tuy đã làm Hoàng Đế, cũng đang tìm cầu nghiên cứu vấn đề nhân sinh. Người không hiểu được Phật Pháp, đã sinh sống cả cuộc đời trong sự hổn độn, đến trong mơ hồ, đi trong mơ hồ, từ xưa đến nay không biết nghĩ ra vấn đề này. Bài kệ này, đã đề cập toàn bộ quá trình trong cuộc sống con người, nhưng mà hai vấn đề quan trọng nhất là sanh tử: “chưa từng sanh tôi, ai là tôi”, đây là vấn đề sanh – sanh từ đâu đến? “lờ mờ nhắm mắt lại là ai”, đây là vấn đề tử - chết sẽ đi về đâu? Cần giải đáp hai vấn đề này, trước phải hiểu danh từ “Nghiệp Lực” của Phật Giáo.

“Nghiệp Lực”, Phạn Ngữ Ấn Độ gọi là Karma, Ngôn ngữ Pali gọi là kamma, Ý nghĩahành vi và tạo tác. Sau tất cả hành vi, động tác của chúng ta ban đầu, đều sẽ lưu lại một năng lực, tiềm ẩn ở bên trong tâm. Năng lực này, Phât Giáo gọi là Nghiệp Lực. Nghiệp Lực lưu trữ lại trong tâm, bám chặt không rời chúng ta, giống như bóng dáng đi theo thân thể của chúng ta. Nghiệp Lực này, từ tính chất của nó có thể phân ra Nghiệp Thiện và Nghiệp Ác. Nghiệp Thiện có thể quyết định sinh mạng của con người đi theo chỗ tốt đẹp, được hưởng thụ thích hợp. Nghiệp Ác có thể quyết định sinh mạng của con người đi theo chỗ tội tệ, gặp phải sự gập ghềnh.

Như vậy, cuộc sống con người, cuối cùng sanh từ đâu đến, chết đi về đâu? Nói đơn giản: sự sinh ra của con người là do nghiệp lực mà đến, chết thì theo nghiệp lực mà đi.

Phật Pháp thuyết minh Quả Báo Thiện Ác, có Lục Đạo Luân Hồi. Lục ĐạoThiên Đạo, Nhân Đạo, A Tu La Đạo, Địa Ngục Đạo, Ngạ Quỷ ĐạoSúc Sanh Đạo. Thiên Đạo, Nhân Đạo, A Tu La Đạo gọi là 3 con đường thiện, là chỗ tạo tác thiện nghiệp của con người; Địa Ngục Đạo,Ngạ Quỷ ĐạoSúc Sanh Đạo gọi là 3 con đường ác, là nơi tạo tác ác nghiệp của con người.

Chúng ta đã hiểu biết những qui luật này, cũng chính là có thể nhận thức được cuộc sống con người thật cao quí, vì con người là một trong 3 con đường thiện. Cuộc sống con người cuối cùng từ đâu đến? Không hề nghi ngờ, cuộc sống con người, là do nghiệp thiện mà đến. Như vậy, chết đi về đâu? Điều này, chính cần phải xem hành vi tạo tác hiện tại thế nào mà quyết định. Nếu như con người không làm các điều ác, thực hành các điều thiện, không những đạt được con đường nhân sinh mà còn có thể thăng tiến lên Thiên Đạo. Nếu các bạn từng bước một theo sự chỉ dẫn của giáo lí Đức Phật để tu hành con đường giải thoát, thì có thể vượt qua Lục Đạo Luân Hồi, giải thoát sanh tử, trở thành Bậc Thánh Giải Thoát. Giả như hành vi động tác của các bạn đa số đều làm xằng làm bậy, hại người lợi mình, như thế 3 con đường ác đương nhiên sẽ có một phần. Cho nên, sau khi đã hiểu rõ những qui luật này, bạn phải chọn một con đường nào để đi, tự mình sẽ có cơ sở chắc chắn nắm lấy nó, tiền đồ cuộc sống của bạn như thế nào, có thể là do chính bản thân bạn làm chủ.

  1. 2. Tịnh Hóa Nhân Sinh:

Bởi vì khoa học hiện đại phát triển mạnh, công nghệ thông tin phát đạt, xây dựng công xưởng khắp nơi, đã tạo thành không khí ô nhiễm, ảnh hưởng đến sức khỏe nhân loại, điều này người có tri thức khoa học đều biết. Nhưng không biết phiền não ô nhiễm nội tâm ảnh hưởng nghiêm trọng trong sự yên bình của tâm linh nhân loại. Song con người không chịu nghiên cứu Giáo Lí Đức Phật,hoặc rất ít hiểu biết Phật Pháp. Thời Triều Minh, Trung Quốc, một tiên sinh Nhà Lí Học, Vương Dương Minh, bởi vì Lí Học của ông đã tìm thấy trong giáo lí Đức Phật, cho nên ông liền hiểu biết, phiền não ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến tâm linh nhân loại, khống chế tư tưởng nhân loại, do đó ông nói: “Sơn trung chi tặc dị trị, tâm trung chi tặc nan phòng”(tên giặc trong núi dễ trừng trị, tên giặc trong tâm khó đề phòng). Phiền não được hình dung là tên giặc. Điều này thuyết minh sự lợi hại của phiền não. Kỳ thật, tâm hồn chúng ta sở dĩ không thể an ổn, là vì phiền não đang quấy nhiễu, đang làm hại. Hành vi chúng ta sở dĩ làm trái với chân lí, cũng là phiền não đang xúi giục, đang nghiêm khắc đòi hỏi.

Trong Kinh Phật nói: “Phật thuyết chủng chủng pháp, vi trị chủng chủng tâm” (Đức Phật nói các loại pháp, vì điều trị các loại tâm). Tâm ở đây chính là chỉ phiền não trong tâm chúng ta.

Cuộc sống con người tràn đầy phiền não là do bị ô nhiễm, chưa hoàn hảo, đau khổ, không lí tưởng. Cho nên phải sửa đổi. Nhưng, làm thế nào để sửa đổi? Chính là cần phải làm trong sạch phiền não. Chúng ta học Phật, chính là được tắm gội trong lời giáo hóa của Đức Phật, dùng nước pháp của Phật Đà đến rửa ráy uế trược (cáu bẩn) nội tâm chúng ta. Chẳng khác nào uế trược phiền não nội tâm chúng ta được tẩy sạch. Như vậy, cuộc sống của người ô mhiễm, chưa hoàn hảo, đau khổ, không lí tưởng, chúng ta liền sửa đổi trở thành cuộc sống của người thanh tịnh, viên mãn, hạnh phúc, và lí tưởng.

Thời xưaẤn Độ, Nước Kiều Tát La có một Quốc Vương tên là Vua Ba Tư Nặc. Có một hôm, Vua Ba Tư Nặc đi tuần tra, trên đường gặp một Ông Lão, đầu tóc bạc phơ, trông hiển lộ ra tuổi tác rất già.

Quốc Vương hỏi Ông ấy rằng: “Ông năm nay bao nhiêu tuổi?”

Ông Lão không có suy nghĩ gì liền trả lời: “Bốn Tuổi”

Vua Tư Nặc cảm thấy ngạc nhiên. Ngài dường như không tin tưởng vào lỗ tai chính mình, do đó lại thò tay phải ra, và dơ lên bốn ngón tay, hướng đến Ông Lão hỏi rằng: “Ông mới bốn tuổi hả!”

Ông Lão gục đầu, khẳng định chứng thực rằng: “Không sai, tôi năm nay chính xác mới bốn tuổi”. Ông Lão biết Quốc Vương nhất định cảm thấy nghi ngờ, liền hướng đến Vua Ba Tư Nặc giải thích rằng:

“Trước kia, tôi không hiểu giáo Pháp Đức Phật, đã sống mấy chục năm, tư tưởng, hành vi đều bị phiền não nội tâm khống chế, làm rất nhiều việc tự mình cho rằng là đúng mà thực tại là sai. Trước bốn năm, tôi đã có cơ hội nghe được Phật Pháp, mới nhận thức cuộc sống con người. Qui Y Phật, thực hành theo giáo lí Phật Đà chỉ dạy, dựa vào Phật Pháp để sinh sống và làm trong sạch cuộc sống con người. Bốn năm gần đây, tôi mới nhận biết được mình thật sự là con người chân chính. Cho nên tôi năm nay mới bốn tuổi”.

Quốc Vương nghe qua lời nói của Ông Lão, thật cảm động! Gục đầu than rằng: “Ông Lão, Ngài nói rất đúng, làm một con người cần học Phật Pháp, dựa theo Giáo Pháp Đức Phật để làm người, mới coi như là con người chân chánh”.

  1. 3. Trang Nghiêm Nhân Sinh:

Từ “Trang Nghiêm”, Phật Giáo dùng để hình dung cái vẻ đẹp. Trang nghiêm nhân sinh (cuộc sống con người), cũng có thể nói chính là làm đẹp nhân sinh. Đẹp, có thể chia thành Hình Tướng đẹp và Nội Tại đẹp. Hình Tướng đẹp, thuộc về bên ngoài; Nội Tại đẹp, tức là chỉ đức tính bên trong của con người. Một người có hình tướng đẹp bên ngoài, mà không có đức tính đẹp bên trong, cái đẹp này vẫn còn khiếm khuyết, không hoàn hảo. Cho nên ngoài tướng đẹp bên ngoài ra, còn phải đầy đủ đức tính đẹp bên trong. Đức tính trong ngoài hoàn toàn đẹp, mới có thể gọi là trang nghiêm nhân sinh. Trang nghiêm nhân sinh, mới chính là con người có một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc và hoàn mĩ.

Phật Giáo là một Tôn Giáo đạo đức thực triển. Người học Phật cần phải thực hành những hành vi đạo đức của Phật Giáo đã chỉ dạy, như 5 Giới, 10 Giới, 4 Nhiếp Pháp, Lục Độ…vv để nuôi dưỡng đức tính nội tâm đầy đủ và trang nghiêm nhân sinh.

Thời xưa, ở Ấn Độ, có một Nhà Đại Từ Thiện(cấp cô độc), cưới được một cô dâu xinh đẹp tên là Ngọc Na Nữ. Người vợ tự cao tự đại về dung mạo xinh đẹp của mình, coi thường Bố Mẹ chồng và người trong gia đình.

Một hôm, Nhà Từ Thiện, mời Đức Phật đến nhà, muốn dạy bảo cô con dâu. Cô này lại cố ý trốn tránh, sau đó vì sự hiếu kỳ, từ bên trong rèm cửa lén nhìn Đức Phật. Cô ấy nhìn được tướng mạooai đức trang nghiêm của Đức Phật, quả thật đẹp hơn mình nhiều! Do đó, cô ấy tự động xuất hiện, hướng đến Đức Phật đảnh lễ. Đức Phật nói: “Ngọc Na, cô có dung mạo xinh đẹp, nếu phối hợp với hành vi tâm đoan chánh, đó chính là vẻ đẹp tuyệt vời. Nên biết, dung mạo xinh đẹp, chỉ là cái đẹp bên ngoài, hành vi đoan chánh, mới là cái đẹp bên trong. Con người đẹp chân chánh, cần phải hoàn toàn đẹp bên ngoài lẫn bên trong!”

Ngọc Na nghe qua lời khai thị của Đức Phật, tâm kiêu ngạo đã được tiêu trừ. Ngay lúc đó, cô xin Qui Y với Đức Phật. Đức Phật dạy cô thực hành những việc tốt, như Tam quy, Ngũ Giới,…vv. Để tăng thêm đức tính đẹp nội tâm, cô ấy dựa vào lời dạy của Đức Phật, lập chí làm một người đẹp chân chánh, nhờ đó cô trở thành một người vợ đoan chánh, một cô dâu hiếu thảo. .

Phật Pháp chỉ dẫn nhân sinh, khích lệ nhân sinh, cổ vũ nhân sinh. Ngoài học Phật có thể nhận thức nhân sinh, làm sạch nhân sinh, và trang nghiêm nhân sinh, còn có thể mang cuộc sống con người không được đẹp đẽ trọn vẹn, sửa đổi thành cuộc sống đẹp đẽ trọn vẹn. Từ trong cuộc sống con người mơ tưởng hão huyền, diễn biến thành cuộc sống con người giác ngộ. Từ cuộc sống con người sanh tử, tiến hóa thành cuộc sống con người giải thoát. Từ cuộc sống con người tình cảm phàm tục, thăng hoa thành cuộc sống con người trí tuệ của Bậc Thánh. Tóm lại, lợi ích học Phật, không thể nói hết được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19688)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23950)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41208)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19686)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23973)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21741)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23291)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27494)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26547)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29305)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33175)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20179)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25760)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20902)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31299)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38550)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21422)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44237)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29811)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42184)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22128)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45733)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23946)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24377)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29243)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33904)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27674)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32118)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21057)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28840)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21560)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28055)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22057)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21421)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19488)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19457)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19823)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19232)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29166)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20607)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23645)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33163)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31830)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21363)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21542)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19364)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26369)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24809)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21747)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22369)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29123)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22550)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20465)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23506)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21229)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35302)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24539)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant