Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Pháp yếu riêng

25 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9330)
II. Pháp yếu riêng

KINH DI GIÁO
Thích Hoàn Quan Việt dịch
Trung tâm Phật giáo Hayward xuất bản 1994

PHẦN CHÁNH TÔN

II. PHÁP YẾU RIÊNG

1. Thiểu dục

Tỳ kheo các ông! Phải biết người đa dụccầu lợi nhiều nên khổ não cũng nhiều; người thiểu dục, không mong cầu không ham muốn thì không khổ não.

Ngay nơi hạnh Thiểu dục còn phải tu tập huống gì là Thiểu dục để sanh ra các công đức?

Người thiểu dục thì không dua nịnh để vừa ý người, cũng không bị các căn dẫn dắt. Người tu hạnh Thiểu dục, tâm được thản nhiên không sự lo sợ, gặp việc có dư, thường không thiếu thốn. Người có thiểu dục, thì có Niết Bàn. Ấy là công đức Thiểu dục.

2. Tri túc

Tỳ kheo các ông! Nếu muốn khỏi các khổ não. Phải quán Tri túc, vì pháp 'Tri túc tức là chỗ giàu có, vui vẻan ổn. Người tri túc tuy nằm dưới đất cũng được an vui; người không Tri túc tuy giàu mà nghèo, người biết Tri túc tuy nghèo mà giàu. Người không Tri túc thường bị Ngũ dục sai khiến, bị người Tri túc thương xót. Ấy là công đức Tri túc.

GIẢNG NGHĨA

Thiểu dục: Ít dục vọng, ít ham muốn.

Đa dục: Nhiều dục vọng, nhiều ham muốn.

Thản nhiênXem như thường, không bị ngoại cảnh làm động tâm.

Tri túc: Biết đủ. Biết được phân lượng hay tài sức của mình, được bấy nhiêu là đủ rồi, không cần quá phần.

ĐẠI Ý

Bài này đức Phật dạy: hàng xuất gia phải ít muốn và biết đủ. Có ít muốn và biết đủ mới có thể tu hành và dứt trừ được phiền não.

GIẢI THÍCH

Trước đã nói qua những Pháp yếu chung, đây nói về những Pháp yếu riêng. Pháp yếu chung là những Pháp yếu dạy chung cho hàng Tam thừaNgũ thừa. Còn Pháp yếu riêng là Pháp yếu chỉ thành tựu các công đức của bậc Thánh nhơn xuất thế. Phần này có chia làm 8 đoạn:

1. Công đức Thiểu dục.

2. Công đức Tri túc.

3. Công đức xa bỏ.

4. Công đức siêng năng.

5. Công đức không quên chánh niệm.

6. Công đức Thiền định.

7. Công đức Trí huệ.

8. Công đức không Hý luận.

Bài này nói về công đức Thiểu dụcTri túc. Câu: "Ngay nơi hạnh Thiểu dục còn phải tu tập, huống gì là Thiểu dục hay sanh ra các công đức," là nói: ít lòng ham muốn là để diệt trừ một ít phần phiền não, còn phải dụng công tu tập hạnh Thiểu dục mới được huống gì là ít lòng tham muốn để được sanh ra công đức thì lẽ tất nhiên phải dụng công tu tập hạnh Thiểu dục càng nhiều hơn.

Lòng tham muốn của con người là một cái hang không đáy, nên chúng ta đối với Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc (hay Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy) đòi hỏi mong cầu không lúc nào biết nhàm chán. Được thì vui, mất thì giận, do đó mà gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, nào sát sanh, trộm cướp, nào tà dâm, vọng ngữ... để rồi đọa lạc vào nơi địa ngục, ngạ quỷsúc sanh

Người xuất gia mong cầu giải thoát, lẽ tất nhiên phải Thiểu dục để lần lần đến chỗ tuyệt dục. Thiểu dục không phải chỉ đối với ái dục không thôi, mà đối với năm thứ dục đều nên chán bỏ.

Ít tham muốn để thành một vị sư; không tham muốn để thành một vị Phật. Nói một cách khác, có "ít tham muốn" vị sư đó mới đủ tư cách dẫn dắt tín đồ; có "không tham muốn" vị Phật đó mới đầy đủ công đức độ tận chúng sanh.

Trong nhất thời, chúng ta không thể làm đúng như lời dạy của ngài Phù Dung là: "Ngộ thinh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết". Những kẻ xuất gia học đạo lúc nào cũng phải lấy đó làm phương châm tiến thủ.

Muốn được Thiểu dục, chúng ta cần phải biết pháp Tri túc. Có Tri túc chúng ta mới thấy nhẹ nhàng, sung sướng, mới không bứt rứt trong lúc thất thời, mới không kiêu hãnh trong khi đắc thế, mới không thấy thiếu thốn một thứ gì; nếu không Tri túc thì dù trong địa vị nào cũng thấy khổ sở, cũng thấy chán ngán. Như câu chuyện vua Ả Rập với cái áo lót mình của bác Tiều phu.

Người học Phật nếu biết Tri túc, chẳng những được sự an ổn, sung sướng, tự mình có thể giải thoát được sự phiền não khổ đau, mà còn có thể cứu độ được mọi người khỏi điều đau khổ. Vì thế đức Phật thường đem pháp Tri túc dạy cho chúng đệ tử của Ngài.

Người biết Tri túc, một giỏ cơm, một bầu nước, cũng thấy sung sướng lắm rồi. Vậy nên, người học Phật luôn luôn phải nhớ nghĩ pháp Tri túcnếu không Tri túc sẽ bị Ngũ dục quấy nhiễu, chẳng những không thể học đạo, thành Phật mà còn phải trầm luân sanh tử, mai một chí xuất gia của mình.

Vậy chúng ta cũng nên đọc thêm hai bài thơ cổ dưới đây, để cùng nhau suy gẫm.

Bài thứ nhất:

Đồ lợi tham danh mãn thế gian
Bất như dưỡng tánh tự thanh nhàn
Lung kê hữu thực than oa cận
Dã hạt vô lương thiên địa khoang
Phú quí bách niên nan bảo thủ
Luân hồi lục đạo dị tuần hoàn
Khuyến quân tảo mích tu hành lộ
Nhất thất nhơn thân vạn kiếp nan.

Dịch nghĩa:

Chen chúc lợi danh khắp cõi trần
Sao bằng dưỡng tánh chốn am vân
Gà lòng lứa đủ, không toàn mệnh
Hạt nội lương oi, được vẹn phần
Phú quí trăm năm không giữ mãi
Luân hồi sáu nẻo dễ xoay vần
Khuyên ai sớm tính đường tu tiến
Kẻo mất thân này khó gặp thân.

Bài thứ hai:

Đản tự vô tâm ư vạn vật
Hà sầu vạn vật thường vi nhiễu
Thiết ngưu bất phạ sư tử hống
Khắp tợ mộc nhơn khán hoa điểu
Hoa điểu phùng nhơn diệc bất kinh
Do mộc nhân thể tự vô tình
Tâm cảnh như như chỉ giá thị
Hà lự Bồ đề đạo bất thành.

Dịch nghĩa:

Tự tâm, vạn vật lặng yên
Lo gì vạn vật theo phiền nhiễu ta
Xưa nay ngựa sắt đâu mà
Khiếp uy sư tử gầm la, phải hờ
Dóng như người gỗ đứng trơ
Nhìn con chim vẽ hững hờ trêu ngươi
Dẫu khi chim vẽ gặp người
Tịch nhiên nào có mấy đời hãi kinh.
Vì chưng người gỗ vô tình,
Trong tâm, ngoại cảnh thinh thinh một màu
Lo gì giác đạo cao sâu,
Tự nhiên sẽ được cơ cầu mà chị

3. Xa bỏ

Tỳ kheo các ông! Muốn cầu quả vị tịch tịnh vô vi an lạc, phải xa lìa chỗ ồn ào náo nhiệt. Riêng ở nơi vắng vẽ. Người ở nơi vắng vẽ được Đế thích, chư Thiên thảy đều kính trọng, thế nên phải bà con, bầu bạn một mình ở chốn rảnh rang, lo diệt gốc khổ. Nếu thích đông người sẽ bị các sự phiền nhiễuVí như cây lớn phải bị lũ chim lót ổ, sẽ có mối lo khô gãy. Còn dính líu với thế gian tất bị dìm trong các khổ; ví như voi yếu mắc lầy, không thể tự ra được. Ấy là công đức Xa bỏ.

4. Siêng năng

Tỳ kheo các ông! Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc gì là khó, thế nên các ông phải chuyên cần tinh tấnVí như giọt nước chảy luôn có thể soi thủng phiến đá. Nếu như tâm của hành giả thường thường biếng nhác bỏ bê chẳng khác nào kéo lửa chưa nóng mà ngưng, tuy muốn được lửa, lửa cũng khó được. Ấy là công đức siêng năng.

GIẢNG NGHĨA

Tịch tịnh Vô vi An lạc: Tức là Niết Bàn, vì đức tánh của Niết Bàn xa lìa phiền não gọi là Tịch. Dứt hết tất cả khổ hoạn gọi là Tịnh. Không phải do công phu tu chứng mới có, nên gọi là Vô vi. Xa hẵn các sự khổ lụy, đầy đủ các công đức lành, nên gọi là an lạc.

Đế thích: Chủ cõi trời Đao lợi, ở thành Hỷ kiến trên đỉnh núi Tu di thống lãnh 32 cõi trời khác (cõi Đao lợicõi trời thứ 33). Tiếng Phạn gọi là Thích Ca Đề Hoàn Nhơn Đà La (Sákra devànàm Indra), cũng gọi là Năng, tức là họ của Thiên đến, Đề Hoàn dịch là Thiên, Nhơn Đà La dịch là Đế, tức là Năng Thiên Đế. Nay dùng cả Phạn ngữ lẫn Hoa ngữ gọi là Đế Thích. Tức là một chúng trong Thích ca viện thuộc về Thai tạng giới Mạn trà la.

Trong Pháp hoa sớ, quyển hai thì giải thích như sau: "Thích Đề Hoàn Nhơn, theo ngoại ngữ nói đủ là Thích ca Đề Hoàn Nhơn Đà Lạ Thích ca dịch là Năng, Đề Hoàn dịch là Thiên, Nhơn Đà La dịch là Chủ. Vì vị trời này cai trị giáo hóa Thiện pháp đường, là nơi trung tâm quần hội của chư thiên, nên gọi là Năng Thiên Chủ".

Chư ThiênDục giới có 6 vị thiên, gọi là lục dục thiênTứ thiền thuộc về sắc giới có 18 vị thiên; Bốn xứ thuộc về Vô sắc giới có bốn vị thiên; ngoài ra còn có Nhật thiên, Nguyệt thiên, và Di đà thiên v.v... các vị thiên thần thuộc về thiên hộ, gọi đó là Chư thiên.

ĐẠI Ý

Bài này đức Phật dạy: Người xuất gia phải xa lánh tất cả, siêng năng tinh tấn lo tu thiện nghiệp không nên lười nghỉ.

GIẢI THÍCH

Trong bài này đọan thứ nhất nói về công đức Xa bỏ, tránh sự ồn ào nhiều sự ô tạp, vì nơi đó khiên cho tán loạn tâm người, không làm sao yên định thần chí được. Do đây người muốn cầu quả vị Tịch tịnh Vô vi An lạc phải tránh xa chỗ đông người. Như đóng cửa ẩn mình ở nơi hang sâu núi thẳm hay nương mình trong một túp lều tranh, đó đều là công việc tấn tu đức xa bỏ. Nếu ai có thể tránh xa được nơi ồn náo, riêng ở chỗ vắng vẻ an nhàn thì người ấy tất được Đế thíchChư thiên cùng nhau kính trọng

Nhưng ở chỗ vắng vẻ an nhàn không phải là biếng nhác, chỉ vì không muốn cho nhiều người làm bận rộn, cốt để tư duy nguồn gốc phát sanh ra khổ mà bồi đắp cho cây trí huệ ngày một tốt tươi. 

Nếu người ưa ở chỗ huyên náo, chẳng những không thể tinh chuyên tu tập pháp tư duy mà còn phải bị các nhân duyên làm tăng khổ thọ. Chẳng khác nào cây lớn thường bị các giống chim quần tụ trên những nhác nhóc, tất không sao tránh khỏi sự khô gãy do chúng gây nên.

Người mê tâm bị thế tục buộc ràng hằng bị chìm đắm trong biển khổ phiền não, không có thời kỳ ra khỏi, chẳng khác nào con voi già say rượu mắc trong bùn lầy, không đủ sức tự ra. Hàng Tỳ kheo đã xuất gia phải tự tiên liệu chớ để thâm nhiễm thế gian mà không thể tự cứu lấy mình.

Đoạn thứ hai là nói đến công đức siêng năng. Bất cứ nghề nghiệp gì, được tinh xảo là do chuyên cần, bị hư hỏng là do biếng trễ. Cần thì không bỏ phế, tinh thì không xen tạp. Do đấy mà đức Phật dạy chúng đệ tử tinh tấn siêng tu trí huệ và phải bền lòng chuyên nhất.

Nếu tinh tấn siêng tu trí huệ, thì trí huệ không sao không sáng tỏ, còn chán nản biếng lười thì một việc nhỏ cũng không thành. Giọt nước tuy không lớn, nhưng rốt lại có thể xoi thủng được phiến đá. Kéo cây lấy lửa nếu chẳng ngừng tay thì lửa ắt sẽ được. Còn như siêng năng một lúc, trễ nải nhiều ngày thì chỉ uổng công vô ích mà thôi. Thế nên Tỳ kheo phải luôn luôn tinh tấn.

5. Không quên chánh niệm

Tỳ kheo các ông! Cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trợ, không bằng không quên chánh niệm. Nếu có người không quên chánh niệm, các giặc phiền não sẽ không vào được. Thế nên các ông cần phải nhiếp niệm tại tâm, nếu để mất niệm sẽ mất các công đức. Nếu niệm lực được vững chắc, tuy vào trong giặc Ngũ dục cũng không bị chúng làm hại. Ví như mặc giáp vào trận thì không còn phải lo sợ điều gì. Ấy là công đức không quên chánh niệm.

6. Thiền định

Tỳ kheo các ông! Nếu người nhiếp tâm thì tâm ở trong định, nên có thể biết được pháp tướng sanh diệt trong thế gian. Thế nên các ông phải thường tinh tấn tu các thiền định, nếu được định rồi thì tâm không còn tán động. Ví như người giữ nước, khéo giữ đê điều. Cũng thế, hành giả vì nước trí huệ, khéo tu thiền định khiến cho không bị chảy mất. Ấy là công đức thiền định.

GIẢNG NGHĨA

Thiện tri thức: Tri là biết được lòng, Thức là biết được tánh. Đây chính là bạn tốt, là những người làm cho ta được lợi ích, dẫn ta tiến trên con đường Đạo nghiệp, chứ không phải chỉ những người học rộng, hiểu nhiều (xin xem lời giải trong kinh Tứ thập nhị chương, bài thứ 9 cùng dịch giả đã xuất bản). 

Thiện hộ trợ: Những người bạn tốt, bảo hộ và giúp đờ ta trên con đường tiến tu đạo nghiệp, nhưng khác hơn thiện tri thức là chỉ giúp đỡ mà không biết được lòng và hiểu được tánh.

Nhiếp niệm: Nhiếp là thu nhỏ lại. Niệm là ý niệm, tâm niệm. Nhiếp niệm là gom giữ những ý niệm ở tâm lại một chỗ, không để cho nó suy nghĩ, vọng tưởng.

Niệm lực: Là một trong Ngũ lực. Do sự chuyên niệm mà được sức mạnh có thể chống lại các sự chướng ngại khác, gọi là niệm lực.

Pháp tướng: Là những pháp cùng một tánh có hình tướng bên ngoài có thể thấy được, tức là phần cảnh, trái với pháp tánh là những pháp khônghình tướng thuộc về nội tâm không thể thấy được

Trong Đại thừa nghĩa chương, quyển hai nói: "Tất cả những pháp hữu vi, thuộc về thế đế đều gọi là pháp tướng".

Sanh diệt: Các pháp hữu vi y nơi nhân duyên hòa hiệp, tuy chưa có pháp mà vẫn có, gọi là sanh; y như nhân duyên ly tán, tuy đã có pháp mà vẫn không, gọi đó là diệt. Những pháp có sanh, nhất định có diệt, ấy là pháp hữu vi. Những pháp có diệt mà nhất định không có sanh, ấy là pháp vô vi.

Nếu đứng về chánh kiến Trung đạo mà nói thì: Pháp hữu vi sanh diệt là giả sanh giả diệt mà chẳng phải thật sanh thật diệt. 

ĐẠI Ý

Bài nầy đức Phật dạy chúng ta phải giữ gìn Chánh niệmnhiếp tâm vào trong định lực.

GIẢI THÍCH

Không quên chánh niệm tức là không để tà niệm chen vào. Chúng ta cầu Thiện tri thức giúp đỡ biết cách phát triển đường lối tu hành cũng không bằng luôn luôn giữ gìn được chánh niệm chẳng hề để mất trong một phút giây nào. Chánh niệm được kiên cố rồi dù cho có vào trong cảnh đời Ngũ dục cũng không còn e ngại; nếu rời bỏ chánh niệm, tà niệm ắt sẽ thừa cơ xâm nhập, chẳng khác nào con điên đã ngự trị trong tâm chúng ta vậỵ

Đệ nhị tổ của thiền tôn, ngài Huệ Khả, nói rằng: "Ta điều phục được tự tâm thì đâu có can gì đến việc của kẻ khác". Nếu chúng ta giữ gìn được chánh niệm, chẳng khác nào người mặc giáp sắt ra trận. Vì nhờ có giáp sắt che chở nên không còn sợ bị giặc làm hại nữa.

Tâm của chúng tatâm tán loạn, thường do tâm tán loạn này mà vào trong lục trần, ngũ dục và chịu các thứ khổ não. Vì thế hàng Tỳ kheo muốn được sanh trí huệ, cần phải nhiếp tâm tu tập thiền định. Nhờ định phát huệ mới có thể được quả giải thoát vô thượng, thành tựu được việc rất hiếm có. Chẳng khác nào người giữ nước, việc tiên quyết phải sửa sang đê điều nước mới không tràn ra bên ngoài gây nhiều tai hại. Hàng Tỳ kheo muốn cho nước trí huệ khỏi bị chảy mất cũng phải nhiếp tâm tu tập Thiền định.

7. Trí huệ

Tỳ kheo các ông! Nếu người có trí huệ thì không có tham trước, thường tự tinh sát không để sanh ra tội lỗi. Thế là ở trong pháp của ta có thể được sự giải thoát. Nếu chẳng vậy, đã chẳng phải là bậc đạo nhân, lại cũng chẳng phải là kẻ bạch y, không biết gọi là gì! Người có trí huệ chân thật, ấy là chiếc thuyền tốt có thể vượt qua biển già, bịnh, chết; cũng là ngọn đèn sáng chiếu phá cảnh tối tăm, mờ ám; là món thuốc hay trị tất cả các chứng bịnh, là lưỡi búa bén chặt đứt cây nghiệp phiền não. Thế nên các ông phải dùng huệ: Văn, Tư, Tu mà tự làm cho thêm phần lợi ích. Nếu là người có trí huệ chiếu soi, dù cho nhục nhãn cũng là người thấy được rõ ràng. Ấy là công đức Trí huệ.

8. Không Hý luận

Tỳ kheo các ông! Các thứ hý luận làm cho tâm mình rối loạn, dù đã xuất gia vẫn chưa được giải thoát. Thế nên Tỳ kheo phải mau dứt bỏ loạn tâm hý luận. Nếu các ông muốn được quả vui Tịch diệt, tức phải khép trừ mối hoạn hý luận. Ấy là công đức không hý luận.

GIẢNG NGHĨA

Tham trướcTham lam nhiễm trước theo sở thích của mình. 

Tinh sát: Suy xét kỹ càng mà tự thức tỉnh.

Hý luậnLời nói đùa, lời luận bàn phi lý, vô nghĩa. Lại không luận là lời lẽ nói đúng lý hay không đúng lý tất cả những ngôn thuyết đều thuộc về hý luận.

Trong Đại thừa huyền luận, quyển hai nói rằng: “Hý luận là tên giả muộn để ví dụ, đối với đạo không có lợi ích, như đứa bé nói đùa mà thôi.”

Trong kinh Tối thắng vương, quyển một nói rằng: Tánh thật tế không có hý luận, duy riêng đức Như lai chứng được, hý luận hằng dứt, gọi là Niết bàn.

Như thế, danh từ Hý luận, ta có thể hiểu theo nghĩa: Giả dối, không thật. Tất cả các pháp hữu vi, sanh diệt đều gọi là Hý luận.

ĐẠI Ý

Bài này đức Phật dạy: Hàng Tỳ kheo phải dùng trí huệ làm gốc và phải mau dứt bỏ các thứ hý luận vô nghĩa.

GIẢI THÍCH

trí huệ thì có thể tránh được tất cả chướng ngại; người có trí huệ thường phải suy xét kỹ càng mà tự thức tỉnh, không để cho công việc làm thêm tội lỗiTội lỗi ít mới có thể vượt qua biển cả sanh, lão, bịnh, tử, có thể tự độ và độ người, đó mới là bậc Đạo nhânTỳ kheo không như pháp này mà tu hành đạo nghiệp thì không phải là hàng xuất gia, cũng không phải là hàng bạch y, không thuộc về lớp nào, hạng nào, không biết gọi bằng gì ?

Trí huệ chính là chiếc bè báu qua biển sanh tử, lưỡi búa bén đốn chặt cây phiền nãoTỳ kheo nếu không bảo trì trí huệ, bằng cách tự tinh sát thì dù có được nghe Phật pháp, cũng chẳng khác nào người được thuốc hay, thầy giỏi mà chẳng chịu sắc uống, chắc chắn phải chết một cách oan uổng

Trí huệ có ba thứ: Văn huệ, Tư huệ, và Tu huệ. Tất cả thiện nghiệp đều nhờ trí huệ mới tăng trưởng.

Bảy đoạn trước nói về công đức phương tiện trưởng dưỡng tự tánh. Riêng đoạn thứ tám là chỉ bày tự tánh ly khai các lậu. Vì không phải là một pháp đối trị nên không đồng với bảy đoạn trước. Vì thế công đức này ở sau cùng. 

Tự tánh của mỗi người xưa nay thanh tịnh, chỉ vì Hý luận khuấy nhiễu nên lần lần trái với bản tánh thanh tịnh sẵn có của mình. Tuy nhiên, khi chứng được thật trí của Sơ quả thì đã thấy được lý Tứ đến, dứt được Phân biệt phiền não, nhưng Câu sanh phiền não vẫn còn tiềm phục để chờ cơ hội hoạt động. Nhân vì thứ phiền não này từ vô thỉ đến nay do Hý luận luân thành, hết sức vi tế rất khó đoạn trừ. Vì vậy mà từ bậc Kiến đạo đến đệ Tứ quả muốn được niết bàn cứu cánh, phải dứt bỏ các thứ Hý luận, thường quan sát khiến cho hai chướng tập khí hoàn toàn không còn sanh trưởng nữa.

Kinh văn đến đây đã hết phần chánh tôn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12534)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10862)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10532)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11207)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12014)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13170)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13661)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33684)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11350)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12946)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13071)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11644)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17910)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11453)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11873)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11521)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18991)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12567)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13158)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15793)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11833)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11709)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12786)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12644)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13981)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13008)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12963)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13309)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12721)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11767)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11745)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12352)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12398)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19840)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12001)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16900)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12686)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15075)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16135)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12901)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12259)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11934)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11939)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13167)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16521)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13241)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12509)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11837)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19875)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11175)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11273)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10411)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11109)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10053)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11763)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant