Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương mười sáu

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9426)
Chương mười sáu

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG MƯỜI SÁU

95.-ÂM:

Phục thứ : "Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, đọc tụng thử kinh, nhược vi nhơn khinh tiện, thị nhơn tiên thế tội nghiệp ưng đọa ác đạo, dĩ kim thế nhơn khinh tiện cố, tiên thế tội nghiệp tức vi tiêu diệt, đương đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.

NGHĨA:

Lại nói tiếp: "Này Tu Bồ Đề! Nếu trai lành, gái tín nào thọ trì, đọc tụng kinh này, mà bị chúng khinh dễ, là vì người ấy đời trước mắc tội nghiệp đáng lẽ đọa vào ác đạo, cho nên đời nay bị chúng khinh dễ, như vậy cái tội nghiệp đời trước mới là tiêu diệt, thì sẽ đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

 

Giải : Tăng Nhược Nột giải: Bài trước nói về sự làm lành, bài này nói về sự dứt dữ; hễ tạo ra nghiệp thì không trốn khỏi quả báo, còn tu pháp Bát Nhã đổi đặng nghiệp trọng làm khinh.

Trong Đại Luận có nói: "Đời trước làm tội nghiệp đáng đọa vào địa ngục, bởi nhờ tự tánh Bát Nhã, nên chịu nghiệp khinh, là bị người khinh bỉ, cũng phạm tội trọng tử hình, mà có kẻ thế lực phò hộ, thì đặng chịu tội nhẹ; xử trượng mà thôi".

Trần Hùng giải: Tri chơn kinh này có cái công đức rất lớn lao, nên đáng cho các cõi nhơn, thiên, cung kỉnh cúng dường; mà bởi sao, nay lại bị người khinh bỉ? Là bởi người ấy đời trước tội nghiệp nặng nề; đáng đọa vào Địa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh, A tu la đời đời kiếp kiếp nay nhờ cái công trì kinh, nên chỉ bị người khinh bỉ mà thôi, thì tội nghiệp của đời trước đều tiêu diệt hết, sau này sẽ đặng thành tựu quả vị Bồ đề.

Người đời phần nhiều ưa làm dữ, mà không ưa làm lành, nhằm khi thấy người trì kinh ấy, bị người khinh tiện, bèn cho là đọc kinh vô ích. Phước báu lời nói luống, đến đỗi có sự mắng của ông Vân Môn, sự rầy của ông Dược Sơn. Những người tưởng như thế là làm cho mỗi người phải khởi lòng  thối chuyển vậy.

Phật nói bài này là sở dĩ để giúp chỗ lành mà cứu chỗ thất cho đời.

Nhan Bính giải: Như người đời trước làm sự tội nghiệp, mà đời này bị người khinh tiện; đáng đọa vào ác đạo, mà hay thọ trì đọc tụng kinh này, bây giờ rõ tánh, ví như hư không của Thái Hư, mới biết là tánh tội vẫn không. Cho nên nói: "Tội nghiệp đời trước thảy đều tiêu diệt, lại đặng quả vị Vô thượng Chánh giác".

Thuở xưa có hai thầy Tỳ Khưu, một ông phạm tội dâm, một ông phạm tội sát, trong lòng không an, đến cầu ông Ba La Mật  Tôn giả  sám hối. Ông Ba La Mật sám hối  cho hai ông; hai ông ấy càng thêm e sợ. Sau khi gặp ông Duy Ma Đại sĩ, vì giải thuyết việc ấy rằng: "Tánh tội vẫn không, không ở trung gian cùng trong hay ngoài". Hai ông ấy nghe rồi liền ngộ; bấy giờ vắng lặng rỗng rang, có tội đâu mà có! dùng theo pháp Tiểu thừa

 

Cho nên ông Vĩnh Gia có nói:

 

Thuyết phá của Duy Ma Đại sĩ.

Ví như trời nắng tuyết sương tiêu.

 

Phó Đại sĩ giải:

Tụng:

Tiền thân gây tội chướng, Nay lại thọ trì kinh.

Bằng bị người khi báng, Thế thì tội giảm khinh.

Nghiệp duyên như đã tỏ. Mê chấp chẳng còn sanh.

Tánh Bát Nhã thường quán, Tự nhiên sẽ chứng thành.

 

Lý Văn Hội giải: Ấy là nói: Như người thọ trì đọc tụng kinh này, đáng cho Thiên, Nhơn cung kỉnh, mà lại bị các sự khổ vì đau ốm nghèo hèn lại bị người ghét bỏ; người đời thấy vậy cho là tụng kinh làm lành không có chi chứng nghiệm bèn sanh lòng nghi hoặc - Nào có biết: Nếu không công đức, trì kinh ấy thì phải đọa vào ác đạo; nhờ người khinh bỉ mà bởi đặng nghiệp báo trong ba đường, mau chứng thành quả vị  Vô thượng.

Trương Vô Tận giải:

Tụng:

 

Bốn mùa lạnh nóng, mãi lần qua.

Phàm Thánh bao nhiêu chỉ sát na.

Tội nghiệp tiền thân nay phải chịu,

Chịu rồi mới hết nghiệp oan gia.

 

Xuyên Thiền sư giải: Chẳng bởi một việc, chẳng thêm đặng một sự khôn.

Tụng:

Khen không ắt, chê không ắt,

Một lý thông rồi muôn việc chắc.

Chẳng thiếu chẳng dư tợ Thái hư,

Ví người tặng hiệu Ba la mật.

96.-ÂM:

Tu Bồ Đề! Ngã niệm quá khứ vô lượng a tăng kỳ kiếp, ư Nhiên Đăng Phật tiền, đắc trị bát bá tứ thiên vạn ức na do tha chư Phật, tất giai cúng dường thừa sự, vô không quá giả. Nhược phục hữu nhơn ư hậu mạt thế, năng thọ trì đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức, ư ngã sở cúng dường chư Phật, công đức bá phần bất cập nhứt, thiên vạn ức phần, nải chí toán số thí dụ sở bất năng cập.

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Ta nhớ đời quá khứ, kiếp vô lượng a tăng kỳ, trước Phật Nhiên Đăng, Ta đã có gặp đặng tám trăm bốn ngàn muôn ức na do tha ([129]) chư Phật, Ta thảy đều cúng dường thờ phụng, chẳng có bỏ qua. Nếu lại có người sau đời mạt pháp ([130]) hay thọ trì đọc tụng kinh này, chỗ đặng cái công đức sánh với công đức của Ta cúng dường chư Phật thì công đức của Ta không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần muôn, một phần ức; cho đến cũng không bằng một phần thiệt nhỏ tột số không thể mà đếm tính ví dụ đặng.

 

Giải : Sớ Sao : Phật nói "Cái công đức cúng Phật của Ta chẳng bằng công đức người trì kinh trong một phần ngàn muôn ức", cho nên nói: Cho đến cũng không bằng một phần thiệt nhỏ tột số không thể mà đếm tính ví dụ đặng.

Vương Nhựt Hưu giải: A tăng kỳ  là  vô ức số, na do tha: nhứt vạn vạn (một trăm triệu: 100.000.000).

Nói là vô lượng vô ức số kiếp, ở trước Phật Nhiên Đăng  thì Phật  Thích Ca  thuyết kinh này đã cách đời Phật  Nhiên Đăng  đến vô ức vô số kiếp rồi.

Lại khi trước ấy gặp tám trăm bốn ngàn muôn ức na do tha  chư Phật ra đời, thì cái kiếp số thiệt nhiều hết sức, mà Phật nhãn đều thấy đặng, bởi tánh huệ không cùng, nên những việc từ đời  vô thỉ  đến nay thảy đều biết cả; vậy mới đặng làm Phật. Người người cũng đều có tánh huệ ấy, nhưng bị căn trần  nó che lấp, nên không đặng như thế.

Công đức cúng dường chư Phật như thế mà không bằng công đức trì kinh, bởi cúng dường thuộc về  tài thí, phước báu  ấy hưởng càng ngày càng bớt, rốt rồi cũng có khi hết. Còn trì kinh thuộc về gieo căn lành, thì căn lành càng ngày càng tăng trưởng cho đến thành quả Phật, nên mới không cùng. Dùng "có hết", sánh "không cùng"; cho nên nói: Chẳng bằng.

Trần Hùng giải: A tăng kỳ  và na do tha  đều là  vô số. Lịch kiếp vô số, cúng Phật vô số thì cầu phước mà thôi, chẳng bằng thọ trì chơn kinh này thì rõ đặng bổn tánh, thoát khỏi luân hồi.

Ngũ Tổ có nói: "Trọn ngày cúng dường chỉ cầu phước điền, chẳng cầu thoát khỏi biển khổ sanh tử, tự tánh nếu mê, phước nào cứu đặng". Cho nên công đức cúng Phật tuy trăm phần, ngàn muôn ức phần cho đến toàn số cho nhiều, cũng ví như bụi cát đều không bằng một phần công đức trì kinh.

Người đời mạt thế, luống biết thờ Phật, mà chẳng biết chỗ ráo rốt của Phật đều bởi tại kinh này. Bằng bỏ kinh này rồi bởi đâu mà đặng, cho nên mới nói như thế, đặng phân ra hơn kém.

Vua Lương Võ Đế cất chùa, bố thí, cúng Phật, trì trai, hỏi ông Đạt Ma Tổ sư: Có công đức chăng?

Đáp : Không.

Người đời sau không tỏ đặng ý ấy.

Ông Vi Sứ QuânThiều Châu  đem việc ấy mà hỏi Lục Tổ.

Đáp : Cất chùa, bố thí, cúng Phật, trì trai, ấy là tu phước, không thế đem phước ấy mà làm công đức. Công đức ở trong Pháp thân  chớ chẳng phải tại tu phước.

Lại nói: "Công đức ở trong tự tánh chẳng phải bố thí, cúng dường mà cầu đặng". Cho nên nói: Phước chẳng bằng công đức, bố thí chẳng kịp trì kinh là vậy.

Lý Văn Hội  giải: A tăng kỳ : vô số.

Cúng dường A tăng kỳ hằng hà sa  chư Phật, thí báu đầy cả đại thiên, bỏ thân mạng như vi trần, mà cái công đức ấy, cũng không bằng công đức của người trì kinh này, mà ngộ đặng chơn tánh một phần trăm ngàn muôn ức.

Ông Đạt Ma  đáp cùng vua Lương Võ Đế: Công đức cất chùa, tả kinh, cúng dường, bố thí chỉ đặng phước báu nhơn, thiên  mà thôi, chớ thiệt chẳng phải là công đức.

 

Xuyên Thiền sư giải: Công chẳng bỏ luống.

Tụng:

Cúng Phật ngàn muôn phước thiệt nhiều,

Đâu bằng giáo pháp giữ làm theo,

Mực đen giấy trắng trong kinh dạy,

Mở mắt mà xem hãy chớ nheo.

Nước dợn dợn,

Gió hiu hiu.

Một thuyền gã Tạ ([131]) tự tiêu diêu.

97.-ÂM:

Tu Bồ Đề! Nhược thiện nam tử, thiện nữ nhơn, ư hậu mạt thế hữu thọ trì đọc tụng thử kinh, sở đắc công đức. Ngã nhược cụ thuyết giả, hoặc hữu nhơn văn tâm tức cuồng loạn, hồ nghi bất tín...

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Bằng có trai lành, gái tín nào, sau đời mạt pháp thọ trì đọc tụng kinh này, chỗ đặng công đức...Nếu ta nói cho hết, hoặc có người nghe, lòng bèn rối loạn, hồ nghi chẳng tin...

 

Giải : Tăng Nhược Nột giải: Hồ nghi; Hồ là con thú kêu là Giả can; tánh hay đa nghi. Mỗi khi lội qua sông thì vừa lóng tai vừa lội.

Bài trước tuy so sánh đặng rõ cái phước cho nhiều, nhưng cũng còn sơ lược; bằng nói thêm cho đủ, e thính giả hồ nghi, mà sanh lòng hoặc loạn.

  Lý Văn Hội giải: Sở đắc công đức v.v... cảnh giới tịnh diệu  sau khi tỏ ngộ; trước kia nói về sự ưa tiểu pháp, là thuyết pháp đặng hàng trụ bực Tiểu thừa, khiến cho tỏ ngộ, đến nay mà hãy còn chưa tin.

Bằng nói về pháp kiến tánh của bực Đại thừa, cho người đặng rõ thông thấu đáo, thì ắt sanh ra nhiều sự cuồng loạn không tin, luống khiến cho hồ nghi thêm nữa.

98.-ÂM:

Tu Bồ Đề! Đương tri thị kinh nghĩa, bất khả tư nghì quả báo diệc bất khả tư nghì.

NGHĨA:

Tu Bồ Đề! Phải biết nghĩa lý kinh này, không thế bàn nghĩ đặng và sự quả báo kết quả cũng không thế bàn nghĩ đặng.

 

Giải : Vương Nhựt Hưu giải: Cụ là đủ. Nếu ta nói cho đủ, cho đúng cái công đức, thì lòng của nhơn gian cuồng loạnhồ nghi mà chẳng tin, là bởi thiệt quá lớn, nên người rất kinh quái. Kinh quái lắm thì phải cuồng loạn. Còn không lắm, thì cũng hồ nghi mà không tin - Đương tri thị kinh  v.v... là nghĩa của kinh này không dùng tâm trí mà nghĩ đặng, không dùng lời nói mà bàn đặng. Bằng người theo đây mà tu hành, thì cái  quả báo há dùng trí nghĩ lời bàn đặng sao?

Phật thường nói công đức kinh này, đến đây lại xưng tụng hết sức, vậy có phải là nói luống đâu? Là bởi kinh này là cái gốc tỏ ngộ chơn tánh, siêu thoát luân hồi, thiệt là công đức không cùng không tột vậy.

Nhan Bính giải: A tăng kỳ : là bất khả số kiếp.

Phật ở trước đời Phật Nhiên Đăng đặng gặp vô số chư Phật, tất cả cúng dường thờ phụng, chớ hề bỏ qua. Bằng đời sau có người thọ trì đọc tụng kinh này, mà đặng cái công đức kiến tánh thì cái công đức cúng dường của ta khi trước chẳng bằng một phần trăm. Công đức kiến tánh có trăm ngàn muôn ức phần đến nỗi dùng pháp toán số thí dụso sánh cũng chẳng đặng.

Phật nói: "Ta nói cái công đức trì kinh, hoặc cũng có người nghe mà sanh lòng cuồng loạn, nghi hoặc chẳng tin", nhưng phải biết kinh này và quả báo, không thể nghĩ bàn đặng; nếu chẳng tin lời Phật, mà trở lại chê báng, thì ác quả đã nhiều, thế nào cũng phải mang ác báo.

Lý Văn Hội giải: Nghĩa là nghĩa Bát Nhã, còn Bát Nhã  là trí huệ - Quả báo là đặng cái công đức. Bởi trí huệ mà ngộ đặng Chơn tánh. Chư Phật ba đời lý cũng không khác. Cho nên cái nghĩa không thể nghĩ bàn đặng.

Tạ Linh Vận giải: Muôn hạnh thẫm sâu, nghĩa lại khó lường, thì cái quả mầu diệu của đạo Bồ đề  há lấy ý tứ gì mà suy nghĩ cho đặng?!

Xuyên Thiền sư  giải: Thảy thảy đều chơn mày nằm ngang trên con mắt.

Tụng:

Thuốc đắng đã tật,

Lời thật mích lòng.

Ấm lạnh tự mình biết,

Như cá hớp nước trong,

Chẳng cần chờ đến "Long Hoa hội",

Tự tánh đã từng thọ ký xong.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26625)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28226)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29360)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33242)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21742)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30605)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31223)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37118)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32254)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27096)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20603)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22237)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23962)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22845)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23186)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30398)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30048)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23118)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22308)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21774)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28194)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19239)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20136)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30879)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41495)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32690)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19114)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 33992)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24958)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23669)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25292)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27741)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24983)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23811)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58650)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23185)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20865)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28137)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28892)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19193)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24570)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21405)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23812)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28596)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29380)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17630)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31005)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25304)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18943)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20107)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23931)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19025)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20144)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20022)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24812)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19387)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22549)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61800)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31115)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22097)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant